Saturday, May 28, 2005

Tình hình thiếu điện nghiêm trọng ở Việt Nam và các giải pháp đề cử


Mưa nhân tạo, giải hạn hồ Hòa Bình: Cần 6 triệu đô
10:58' 28/05/2005 (GMT+7)

Sáng 27-5, tại Hà Nội đã diễn ra hội thảo khoa học về mưa nhân tạo do Viện Khí tượng Thủy văn tổ chức. Tại hội nghị, PGS-TS Vũ Thanh Ca, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới (Viện Khí tượng Thủy văn), khẳng định: Có thể giải hạn cho hồ Hòa Bình bằng mưa nhân tạo.

. Phóng viên: Xin ông cho biết, làm mưa nhân tạo có thể giải hạn cho hồ Hòa Bình không?

PGS-TS Vũ Thanh Ca (Ảnh: TT)

- PGS-TS Vũ Thanh Ca: Việc làm mưa nhân tạo có thể giúp tăng lượng nước phục vụ đời sống, sản xuất, chống hạn hay phòng chống cháy rừng... Đặc biệt là có khả năng kéo dài mùa mưa để dự trữ nước cho mùa khô. Nếu được đầu tư hoàn chỉnh về thiết bị và công nghệ làm mưa nhân tạo phù hợp sẽ giải hạn được thủy điện Hòa Bình ở thời điểm mùa khô. Để làm mưa nhân tạo cần có 2 yếu tố là cơ sở hạ tầng (thiết bị, công nghệ làm mưa nhân tạo...) và nhân lực. Hiện tại, đồng bằng trung du Bắc Bộ được xem là thuận lợi nhất để làm mưa nhân tạo với số liệu nghiên cứu khí tượng được tích lũy từ nhiều năm nay, cộng thêm mạng lưới trạm quan trắc được phủ kín hơn các khu vực khác và điều kiện mây thuận lợi (yếu tố quan trọng nhất để làm mưa nhân tạo).

. Vậy cần bao nhiêu tiền để làm mưa nhân tạo?

. Theo tính toán của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hoàng Trung Hải, nếu thiếu 1 KWh điện thì nền kinh tế thiệt hại 0,5 USD. Hiện mỗi ngày VN thiếu 6 - 7 triệu KWh, nghĩa là mất 3 triệu USD/ngày. Vậy tại sao chi 6 triệu USD làm mưa nhân tạo để giải hạn cho hồ Hòa Bình chúng ta chưa dám đầu tư?

- Kinh phí nhiều nhất là mua sắm các thiết bị ban đầu gồm máy bay, radar và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài với khoản tiền từ 5 - 6 triệu USD. Hiện tại, VN đã có máy bay đủ để làm mưa nhân tạo, còn radar rẻ nhất (Mỹ) khoảng 2 triệu USD, còn lại là các thiết bị khác và công nghệ làm mưa. Những thiết bị này có thể hoạt động trong 20 năm tới mà không sợ lạc hậu. Hiện nay, chúng tôi được biết nhóm nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Khí tượng quốc gia Mỹ (NCAR) với phương pháp làm mưa nhân tạo theo công nghệ phun đốt tráng nước được Tổ chức Khí tượng Thế giới của Liên Hiệp Quốc đánh giá là có hiệu quả và hứa hẹn nhất. Tuy nhiên, để làm được việc này phải lập dự án rồi trình duyệt qua nhiều khâu mất rất nhiều thời gian.

. Nếu Chính phủ đồng ý cấp tiền ngay mà không phải lo các thủ tục phiền hà, thì trong thời gian bao lâu sẽ làm được mưa nhân tạo?

- Với điều kiện đó thì trong thời gian từ 15 ngày đến 1 tháng chắc chắn sẽ triển khai làm được mưa nhân tạo cung cấp lượng nước cơ bản cho thủy điện Hòa Bình phát điện (nếu điều kiện mây tốt). Từ 20 ngày nay ở lưu vực sông Đà đầu nguồn thủy điện Hòa Bình liên tục có mây, tuy nhiên do một số yếu tố tự nhiên nên không thể gây ra mưa.

. Giá thành của một mét khối nước từ việc làm mưa nhân tạo là bao nhiêu, thưa ông?

- Có nhiều yếu tố làm nên giá thành của mưa nhân tạo nhưng nhìn chung là rất rẻ. Theo tính toán của chúng tôi, để làm mưa nhân tạo ở VN chi phí khoảng 20-30 đồng/m3 nước, bao gồm cả chi phí đầu tư ban đầu. Ở Mỹ hiện nay, giá thành vào khoảng 50-60 đồng/m3 nước.

. Các hóa chất để làm mưa nhân tạo có gây hại cho môi trường và sức khỏe con người không?


- Tôi khẳng định là với công nghệ phun đốt tráng nước sẽ không ảnh hưởng đến môi trường cũng như sức khỏe con người. Còn theo công nghệ trước đây dùng một số chất như iodide bạc nhưng với hàm lượng rất nhỏ nên không đủ gây hại môi trường. Còn các chất độc khác như băng khô (carbonic khô), băng lỏng (carbonic lỏng) và ni tơ lỏng thì khi rơi xuống đất sẽ bay hơi hết, không có khả năng gây hại.

. Khi nào VN có thể làm mưa nhân tạo một cách phổ biến để chống hạn?

- Hiện nay chúng tôi mới chỉ thực hiện đề tài khoa học của Bộ Tài nguyên và Môi trường và đang trong quá trình chuẩn bị. Dự kiến, đến cuối năm 2005, sẽ có báo cáo khả thi và đầu năm 2006 sẽ báo cáo đề tài. Đến năm 2008, sẽ tiến hành thử nghiệm làm mưa nhân tạo, kết hợp phục vụ đời sống. Từ năm 2010, sẽ tiến hành sử dụng làm mưa nhân tạo phổ biến đáp ứng theo yêu cầu. Ở miền Trung sẽ khó khăn hơn về điều kiện tự nhiên, nhưng ở Tây Nguyên và ĐBSCL có thể làm mưa nhân tạo và thuận lợi nhất vẫn là đồng bằng trung du Bắc Bộ.

  • Theo Người Lao Động

Vận hành Nhà máy nhiệt điện Na Dương:

Ứng cứu ngành điện

Tổ máy số 2 Nhà máy nhiệt điện Na Dương đang vận hành với công suất 55,6 MW (ảnh chụp chiều 27-5-2005) - Ảnh: T.T.D.
TT - Trước nguy cơ thiếu điện trầm trọng tại các tỉnh miền Bắc, từ chiều 25-5, mặc dù đang trong giai đoạn chạy thử nghiệm, hiệu chỉnh thông số và chưa được nhà thầu Marubeni (Nhật Bản) bàn giao nhưng Tổng công ty Than VN (TVN) đã quyết định đưa Nhà máy điện Na Dương vào hoạt động để ứng cứu ngành điện.

Theo kế hoạch, các nhà máy điện Na Dương, Cao Ngạn (Thái Nguyên) thuộc TVN và Uông Bí (Quảng Ninh) thuộc Tổng công ty Điện lực VN (EVN) đều đã phải đi vào hoạt động. Tuy nhiên, do tiến độ xây dựng chậm nên cả ba nhà máy này đều không vận hành đúng kế hoạch. Cao Ngạn dự kiến tới quí 3 này sẽ vận hành, còn Uông Bí phải chờ đến 2006.

Chiều 27-5, trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Đức Pha - phó giám đốc Công ty nhiệt điện Na Dương - cho biết Nhà máy nhiệt điện Na Dương đang vận hành tổ máy số 2, cung cấp cho EVN khoảng 1,2 triệu kWh điện mỗi ngày. Na Dương có hai tổ máy, mỗi tổ máy có công suất 55,6 MW. Dự kiến tổ máy số 1 sẽ vận hành vào chiều 31-5. Sau khi đi vào hoạt động, hai tổ máy của Na Dương sẽ cung cấp cho EVN 2,4 triệu kWh điện mỗi ngày, tức là có khả năng đáp ứng cho ba tỉnh có nhu cầu điện tương đương như Lạng Sơn.

Tính từ khi chạy thử nghiệm đến nay, Na Dương đã bán cho EVN 145 triệu kWh điện. Sau khi vận hành chính thức, nhà máy này sẽ đáp ứng cho EVN mỗi năm khoảng 600 - 650 triệu kWh điện. Hiện tại, giá bán điện của Na Dương cho EVN là 620 đồng/kWh. Đây là giá bán được xây dựng từ năm 2001. Theo ông Pha, nếu tính theo giá hiện tại, giá bán 1 kWh điện sẽ phải là 660 đồng. Như vậy, nếu bán theo giá cũ, Na Dương mỗi năm thiệt khoảng 24 tỉ đồng.

Na Dương hiện là nhà máy điện duy nhất của ngành than đang ứng cứu cho ngành điện. Mỗi ngày, ước tính Na Dương tiêu thụ khoảng 1.600 - 1.800 tấn than. Khác với các nhà máy nhiệt điện than khác sử dụng công nghệ đốt than phun, Na Dương áp dụng công nghệ lò đốt than tầng sôi tuần hoàn nên có thể đốt được nhiên liệu là các loại than kém chất lượng nhất tại mỏ than Na Dương. Một ưu điểm khác của công nghệ lò đốt than tầng sôi tuần hoàn là việc thải khí độc thấp nên không gây ô nhiễm môi trường.

KHIẾT HƯNG



Làm sao đủ điện? Nhập khẩu!


15:00' 25/05/2005 (GMT+7)

Suốt tuần qua, mất điện luôn là đề tài nóng nhất của các báo, nóng hơn cả ... kỳ họp Quốc hội. Ngay khi bài viết của chuyên gia Bùi Văn (Chương trình kinh tế Fulbright Việt Nam) đến với chúng tôi, VietNamNet cũng đang trong tình trạng mất điện nên bài viết đã không thể xuất hiện sớm như mong muốn. Và vì thế, chúng tôi càng tâm đắc với ý kiến của tác giả: giải pháp để có điện nhanh và hợp lý nhất trong thời buổi hội nhập là: nhập khẩu (thay vì chờ đợi các phản ứng khác của nền kinh tế theo kiểu tự cung, tự cấp).


Điện, công nghệ, và hội nhập

Việc mất điện có lẽ đã trở thành ký ức xa xưa của người Hà Nội. Dường như đã xa lắm rồi, khi đèn điện phụt tắt thì mọi người thản nhiên đi thắp ngọn đèn dầu. Và khi nghe một tiếng reo “A a a...” kéo dài ngoài phố, tự nhiên mọi người hiểu là điện đã có trở lại.

Nhưng câu chuyện đã quay trở lại từ tuần qua. Có hai điều làm cho việc cắt điện được đặc biệt chú ý hơn so với trước đây. Thứ nhất, lịch cắt điện được công khai minh bạch. Lý do cắt điện được giải thích rõ ràng. Biện pháp giải quyết cũng được công bố: tăng cường tải điện từ miền Nam, đàm phán mua điện của Trung Quốc, và chờ... mưa lũ. Thứ hai, cuộc sống người dân ngày nay đã gắn quá chặt với điện, từ ngọn đèn chiếu sáng đến chiếc máy bơm nước lên tầng cao, từ cái nồi cơm điện đến chiếc điện thoại “mẹ bồng con” mà mất điện trở nên vô dụng, từ chiếc ti-vi để xem bóng đá quốc tế đến dàn máy lạnh để được ngủ đắp chăn giữa mùa hè. Quan trọng hơn nữa là công việc kinh doanh và việc làm của bao người đang gắn chặt vào điện.

Bản chất của công nghệ

Công nghệ và kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về điện càng tăng. Ước tính năm 2003 bình quân mỗi người dân Việt Nam sử dụng 500 kWh. Con số này ở Trung Quốc là 1250 kWh, và ở Thái Lan là 1650 kWh. Có lẽ chẳng cần bàn đến các con số của Singapore, Nhật Bản hay ở Âu – Mỹ, cũng đủ thấy nhu cầu của ta còn tăng nhiều nữa.

Thiếu điện cũng thể hiện bản chất của công nghệ. Thứ nhất, lương thực hay sắt thép có thể dự trữ trong kho được, nhưng điện thì không thể. Thứ hai, để bổ sung cho công suất điện thiếu hụt thì phải mất hàng năm trời xây dựng (tất nhiên có cách nhanh hơn là ra chợ mua ngay một chiếc máy phát mi-ni, nhưng rõ ràng đây không phải là cách giải quyết hệ thống). Thứ ba, nhiệt điện thì điều hòa quanh năm nhưng phải đốt dầu hay than đắt đỏ, thuỷ điện chỉ dùng nước trời cho nhưng phải lệ thuộc vào thời vụ và tính tình của ông trời. Không may là mùa nước cạn của ta lại chính là mùa nóng bức nhất và nhu cầu dùng điện lên cao nhất.

Ngành điện đã hết sức nỗ lực trong việc tăng phạm vi bao phủ của mạng lưới cấp điện, trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong sản xuất và tiêu dùng. Đây là một bài toán rất khó với nhiều biến số: huy động vốn, cân đối năng lực sản xuất điện và truyền tải điện, dự báo nhu cầu, và cả dự báo... thời tiết.

Hiện nay thủy điện chiếm 46% sản lượng điện của Việt Nam. Nghĩa là, gần một nửa sản lượng điện của ta phải tùy thuộc vào tính nết của ông trời. Nếu xét đến các biện pháp điều hòa lượng nước dự trữ cho thủy điện, tính đến mùa khô vẫn còn khoảng một phần tư đến một phần ba nhu cầu điện của ta phải chịu rủi ro thời tiết.

Nếu đầu tư nhiệt điện để cung cấp bù cho thuỷ điện khi nước cạn, chúng ta sẽ mất một phần tư công suất phát điện (tương đương hàng tỉ đô la đầu tư) chỉ để hoạt động trong một tháng khô hạn và nằm chơi không trong những tháng còn lại. Một tháng hoạt động nhưng phải chịu khấu hao mười hai tháng sẽ đẩy giá thành lên quá mức có thể chấp nhận được.

Tác động của hội nhập

Một yếu tố nữa nên được sớm đưa vào bài toán. Đó là yếu tố hội nhập.

Theo thống kê chưa đầy đủ, thế giới này có 85 nước đang xuất khẩu điện, 99 nước đang nhập khẩu điện, trong đó có 75 nước vừa xuất vừa nhập. Ngay cạnh chúng ta, Trung Quốc hàng năm xuất khẩu 11 tỉ kWh điện và nhập khẩu 2,5 tỉ kWh, Thái Lan hàng năm xuất khẩu 200 triệu kWh và nhập khẩu 600 triệu kWh. Người ta đã sử dụng hội nhập để giải bài toán mất cân đối cung cầu theo không gian và theo thời gian. Đối với ta, việc nhập khẩu điện đã được đề ra trong chiến lược phát triển điện, nhưng đến nay vẫn ở mức đang... thương lượng. Dù cho giá nhập khẩu có thể cao, vẫn không thể cao hơn giá thành của một nhà máy mà mỗi năm chỉ vận hành một tháng.

Mở rộng ra, nhiều vấn đề kinh tế nên được xem lại trên quan điểm hội nhập. Đến nay tổng xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt 140% tổng thu nhập quốc dân. Xét theo con số này, chúng ta thuộc hàng hội nhập cao trên thế giới. Nhưng dường như ở vài lĩnh vực đâu đó vẫn còn quan điểm tự cung tự cấp. Nếu nước nào cũng tự chủ về điện, Trung Quốc xuất khẩu điện cho ai? Nếu ai cũng nhất định t chủ về lương thực, Việt Nam chẳng thể nào xuất khẩu gạo nhiều như hiện nay. Tự cung tự cấp để bảo đảm an ninh cũng là một lập luận, nhưng nên xét tỉ lệ bao nhiêu là hợp lý. Cái giá phải trả cho tự cấp 100% thường là rất cao.

  • Bùi Văn



Năm 2008, sẽ không còn lo thiếu điện?
12:17' 25/05/2005 (GMT+7)

(VietNamNet) - Với tốc độ xây dựng có năm tới 8-10 nhà máy điện, Tổng giám đốc Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) Đào Văn Hưng nghĩ rằng đến năm 2008-2010 có thể đáp ứng được nhu cầu điện.

Ông Đào Văn Hưng.
Ông Hưng đã có cuộc trao đổi với báo giới bên lề hành lang Quốc hội sáng 24/5.

- Ông có cho rằng, để xẩy ra tình trạng thiếu điện trầm trọng hiện nay có phần trách nhiệm của ngành điện ở chỗ lệ thuộc quá nhiều vào thuỷ điện và xây dựng các nhà máy phát điện mới chậm tiến độ?

- Trước hết phải nói như thế này! Năm 2001, EVN đã nhận định được tình hình và đã đề xuất với Chính phủ xin một cơ chế đặc biệt để làm đường dây 500kV mạch 2. Có như vậy bây giờ ta mới có thêm 4 triệu KWh/ngày. Thời gian vừa rồi làm rất cấp bách, hầu như công nhân phải leo trên cột 3 ca, kể cả ban đêm.

Lý giải việc cắt điện không đúng như lịch công bố, ông Đào Văn Hưng nói: ''Hiện nay ở miền Bắc sa thải 9-10% lượng điện năng hàng ngày, riêng Hà Nội thì khoảng 4-5%. Đã ra lịch (cắt điện) như thế rồi thì thực hiện theo lệnh đó. Tuy vậy, trong quá trình thao tác cũng có những đường dây bị quá tải. Những nhánh phụ tải nào không quan trọng buộc phải sa thải để kịp cứu chứ không máy vượt tần số cho phép thì cũng tự cắt. Cũng giống như 10 người cùng khiêng vật gì đó, một ông buông ra thì những ông khác không thể nào gánh nổi cứ thế phải buông ra''.

Thứ hai, ngành điện đầu năm 2004 đã chủ động đàm phán với Trung Quốc để mua điện vì đã nhận định trước tình hình.

Việc thứ ba, chúng ta phải nhìn nhận chung việc hồ thủy điện Hoà Bình hoặc một hồ thủy điện nào đó trên thế giới cạn nước đều dẫn đến nguy cơ thiếu điện. Nhưng để khắc phục được tình trạng này thì không thể đầu tư một nhà máy điện để ''chờ'' xẩy ra sự cố. Không thể bỏ 2,5-3 tỷ đô la để xây dựng một nhà máy cứu được công suất thủy điện Hoà Bình trong 5-10 ngày như hiện nay. Không có nhà nước, không có doanh nghiệp nào đứng ra làm việc như vậy.

Na Uy, Phần Lan, New Zealand... đầu tư đến 80-90% là thuỷ điện, như Na Uy là 100%. Người ta cũng đưa ra một nguyên tắc điều hành: Nếu như tần suất nước về từ 70% trở lên thì hầu sẽ phải cắt điện. Đó là việc phải xẩy ra và thiệt hại do cắt điện so với việc đầu tư nhà máy đảm bảo 100% công suất để cứu những ngày hạn thì không ai làm cả. Vì như vậy rất thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân, vốn đầu tư quá lớn mà nhà máy nằm chờ.

Bây giờ mình đặt câu hỏi tương tự, tại sao nhà ở Việt Nam hay các nước có động đất không tính đến động đất cấp 8, cấp 9 mà phải để cho nó sập. Có thời điểm dẫn đến chết người nhưng không thể đầu tư một vốn quá lớn chống động đất hoặc hiện tượng sóng thần. Những cái thuộc về thiên tai, chúng ta chỉ phòng và chống ở mức độ nào đó cho phép.

- Nhưng việc thiếu điện không giống như thiên tai, trường hợp này có lỗi nào do quy hoạch điện chưa được đảm bảo?

- Tổng sơ đồ điện chúng tôi đã điều chỉnh lần thứ 2. Với tốc độ xây dựng như thế này thì tôi nghĩ vào vào năm 2008-2010 có thể đáp ứng được nhu cầu điện. Nhưng chúng ta cũng phải nhìn nhận thế giới xung quanh, nhiều nước như Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan... hiện đang thiếu năng lượng như chúng ta. Bởi vì với một tốc độ phát triển kinh tế như thế này, thì việc xây dựng các nhà máy điện để đuổi theo kịp là một việc khó.

Ví dụ bây giờ trời nắng nóng thì mỗi người bỏ tiền ra mua một cái điều hoà thì tự nhiên phụ tải tăng 50%, Nhưng ngành điện không thể bỏ tiền xây ngay một nhà máy điện chỉ trong thời điểm 2-3 ngày được mà phải mất 4-5 năm. Ví dụ, việc cung cấp điện cho tỉnh Bình Dương cho thấy một bài học rất lớn. Bình Dương hiện nay tăng 40% phụ tải nhưng ngành điện không thể lao theo kịp tốc độ đó được. Bởi vì nhà máy xây 1-2 xong thì sử dụng điện. Nhưng nhà máy điện thì không thể như thế, thường chậm một nhịp 1-2 năm. Những quy hoạch vừa rồi đều đã đưa một tốc độ xây dựng rất cao, có năm khởi công đến 8 -10 nhà máy điện. Chưa có giai đoạn nào làm như thế này cả! Nhưng phải có thời gian thì mới đuổi theo kịp nhu cầu sử dụng điện.

- Thủy điện Sơn La thì sau khi hoàn thành có giải quyết vấn đề này không, thưa ông?

- Đã có nhà máy thuỷ điện Sơn La thì không xẩy ra tình trạng này. Bởi vì thuỷ điện Sơn La tích được 9 tỷ m3 nước ở trên đó. Nó sẽ phát điện sau đó nước đưa về thủy điện Hoà Bình phát lại một lần nữa rất là tốt.

- Có ý kiến làm nhà máy điện hạt nhân...?

- Nhà máy điện hạt nhân cũng nằm trong quy hoạch nhưng hiện nay thì ngành điện đang làm báo cáo tiền khả thi.

  • Văn Tiến ghi

Thiếu điện nghiêm trọng năm 2005
07:16' 27/05/2005 (GMT+7)

Hồ Hòa Bình quằn quại dưới mực nước chết
(VietNamNet) - Tính đến 13h chiều nay (26/5) mực nước hồ Hòa Bình ở mức 78,03m thấp hơn mực nước chết 1,97m.

Chùm ảnh: Mắc kẹt ở những ngã tư... không đèn
(VietNamNet) - Nhiều đèn tín hiệu giao thông ở Hà Nội được cúp điện để tiết kiệm. Còi inh ỏi, xe máy đan xen, ôtô chết dí là cảnh thường xuyên diễn ra.

Hà Nội: Diện cắt điện hẹp dần
(VietNamNet) - Do Nhiệt điện Phả Lại tăng công suất và miền Bắc đã nhận 4 triệu KWh điện từ miền Nam, ít khu vực bị cắt điện hơn từ hôm nay.

Thị trường tiêu dùng quay lại thời thiếu điện?
(VietNamNet) - Chị Hương bán hàng tạp phẩm tại khu A tập thể Nghĩa Tân cho biết, mặt hàng bán chạy nhất là nến, đặc biệt là nến to để dùng thắp sáng.

Miền Bắc sẽ phải tiết kiệm 30% điện sinh hoạt
Miền Bắc sẽ phải tiết kiệm tối thiểu 30% điện sinh hoạt, chiếu sáng để dành cho sản xuất, kinh doanh.

Nháo nhác như công sở… mất điện
(VietNamNet) - Từ bệnh viện, Bộ giáo dục đào tạo đến tòa soạn báo, cảnh nhốn nháo bắt đầu diễn ra trong mấy ngày qua mỗi khi bị cúp điện.

Hà Nội: "Cúp" điện có cắt nước sinh hoạt?
(VietNamNet) - Vào hè, nước sinh hoạt luôn là vấn đề nóng bỏng tại Hà Nội. Mấy ngày qua Hà Nội bị cắt điện luân phiên, nước sinh hoạt sẽ thiếu?

HN: Được "ứng cứu", cắt điện diện rộng hơn
(VietNamNet) - Dù điện đã tải từ Nam ra Bắc, việc cắt điện luân phiên vẫn được thực hiện với Thủ đô, trên nhiều khu vực hơn cả những ngày trước.

Chiều nay, bắt đầu tải điện từ Nam ra Bắc
(VietNamNet) - Ông Đào Văn Hưng, Tổng giám đốc Tổng công ty điện lực VN cho biết như vậy tại hành lang Quốc hội sáng nay.

Tường thuật từ... dưới mực nước chết
(VietNamNet) - Hồ Hoà Bình đã xuống dưới mực nước chết. Không mưa, mực nước càng giảm, sự lo âu trên gương mặt người thợ điện càng tăng...

Giữa tháng 6, hồ Hòa Bình mới đủ nước
(VietNamNet) - Phó GĐ Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn TƯ cho biết, mưa lũ đầu mùa về khoảng 10 - 15/6 mới đủ sức nâng mực nước hồ.

Hồ Hòa Bình xuống dưới mực nước chết
(VietNamNet) - 7h sáng nay, mực nước hồ chỉ còn 79,35 m, thấp hơn mức chết 65 cm. Lượng nước vào rất thấp chỉ đạt 165 m3/s.

Thiếu điện: Hà Nội ngột ngạt
Đường tắc do đèn giao thông mất, công sở thắp nến làm việc, gia đình ra tiệm ăn cơm tối, "cò" xăng cũng tranh thủ nâng giá.

Đổ xô mua máy phát điện
(VietNamNet) - Bỏ ra tiền triệu để mua một chiếc máy phát điện cho hộ gia đình, cơ quan, văn phòng... đang là một thực tế diễn ra tại Hà Nội.

Ngày 24/5: Miền Bắc sẽ có điện “giải nguy”
Tối 22/5, Tổng công ty Điện lực VN (EVN) đã đóng điện vận hành đường dây 500kV mạch 2 Đà Nẵng - Hà Tĩnh (dài 392,8km) với công suất 850 MW.

Ký túc xá những đêm mất điện
(VietNamNet) - “Mất điện rồi.. ồi…!” Đám sinh viên Kí túc xá Mễ Trì, ĐHKHXH&NV Hà Nội ùa ra hành lang hò reo ầm ĩ. Cả khu nội trú tối đen như mực.

Tiết kiệm - giải pháp sống còn đối phó thiếu điện
(VietNamNet) - Sau khi thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam họp báo gấp, thông báo các biện pháp tiết kiệm điện.

Hà Nội bắt đầu cắt điện một số khu vực
(VietNamNet) - Dù cố gắng đảm bảo tối đa việc cấp điện nhưng Hà Nội vẫn công bố lịch cấp điện không ổn định cho một số khu vực.


0 Comments:

Post a Comment

<< Home