Sunday, July 30, 2006

Nơi nào có dịch vụ làm hầm biogas?

Nơi nào có dịch vụ làm hầm biogas?

TT - * Gia đình tôi nuôi 10 con heo, phân heo thải ra gây mùi hôi cho gia đình và hàng xóm. Xin hỏi nơi đâu có dịch vụ làm hầm biogas? Nếu tôi muốn tự làm hầm biogas để giảm chi phí thì có được không? (Võ Tá Bân, quận Tân Bình, TP.HCM)

* TS BÙI XUÂN AN (giảng viên khoa công nghệ môi trường, ĐH Nông lâm TP.HCM - ảnh) trả lời:

- Lượng phân thải ra của 10 con heo là đủ để làm túi biogas và cung cấp một lượng khí gas để nấu nướng cho một hộ gia đình 5-7 người. Trường ĐH Nông lâm TP.HCM có bộ phận chuyên lắp đặt, hướng dẫn và bán vật dụng để làm túi biogas hoặc xây hầm biogas.

Một túi gas qui mô hộ gia đình gồm có: túi ủ, túi dự trữ, ống dẫn gas đến bếp... có giá khoảng 1 triệu đồng. Thời gian sử dụng trên 10 năm. Anh Bân có thể mua vật dụng và xem tài liệu kỹ thuật để tự lắp ráp.

Còn nếu thuê luôn dịch vụ lắp đặt hoàn chỉnh thì sẽ tính thêm tiền công khoảng 150.000-200.000 đồng. Túi gas phải được đặt trên hầm rộng khoảng 10m. Nếu diện tích nhỏ hơn, anh Bân có thể xây hầm gạch (chiều rộng khoảng 5-7m) chìm dưới đất. Thường một hệ thống hầm gạch biogas có giá 5-6 triệu đồng.

Muốn biết thêm chi tiết, anh có thể liên hệ số ĐT: 8964422 để được giải đáp.

PV

Friday, July 21, 2006

Sử dụng biogas để chạy máy phát điện

Sử dụng biogas để chạy máy phát điện
SGGP:: Cập nhật ngày 20/07/2006 lúc 22:37'(GMT+7)

Sau hơn 1 năm nghiên cứu chế tạo và cho chạy thử nghiệm tại trang trại Hồng Sinh (Dầu Tiếng- Bình Dương), thạc sĩ Nguyễn Đình Hùng, Trưởng nhóm chế tạo động cơ của bộ môn Ô tô - Máy động lực thuộc Khoa Kỹ thuật Giao thông - Đại học Bách khoa TPHCM cho biết, công trình nghiên cứu sử dụng khí biogas để chạy máy phát điện đã hoàn tất.

Anh Nguyễn Đình Hùng (áo trắng) và cộng sự kiểm tra sự vận hành của máy phát điện sử dụng động cơ chạy biogas. Ảnh: CAO THĂNG

Theo đó, phân gia súc sẽ được ủ để tạo khí; khí từ hầm sẽ được dẫn lên theo đường ống, dẫn tới túi tích khí rồi đi qua bộ lọc để xử lý khí H2S và được trộn mùi để khử bớt mùi hôi của khí NH3-N trong biogas.

Cũng tại đây, khí sẽ được tách nước (tách ẩm) sơ bộ, sau đó máy nén sẽ có nhiệm vụ nén khí tách ẩm, đảm bảo lưu lượng biogas cấp cho động cơ…, khí sẽ được đốt để phát điện. Ưu điểm nổi bật của nghiên cứu này là đã tách hoàn toàn lượng H2O và khí H2S ra khỏi biogas giúp tăng cường tuổi thọ động cơ và xử lý triệt để mùi hôi do khí H2S (mùi trứng thối) và NH3-N (mùi khai) có trong khí biogas.

Những hộ gia đình chăn nuôi nhỏ, lẻ (từ 8-12 con heo, bò…) có thể sử dụng công nghệ này để phát điện. Thạc sĩ Nguyễn Đình Hùng cho biết, chi phí lắp đặt một động cơ loại có công suất 2,5 kW là từ 8 đến 10 triệu đồng và mất khoảng 3,5 ngày.

TUỆ MẪN

Điện gió VN: thiếu hành lang pháp lý để phát triển

Điện gió VN: thiếu hành lang pháp lý để phát triển

“Việt Nam và Philippines là 2 nước có tài nguyên gió lớn nhất ASEAN nhưng việc phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam còn rất chậm chạp”.

>> Nghiên cứu ứng dụng năng lượng gió tại đảo Lý Sơn

Ông Lê Hoàng Việt, chuyên gia Trung tâm Phát triển các tài nguyên môi trường năng lượng (CEERD-Thái Lan), đã thẳng thắn so sánh việc phát triển điện gió giữa VN và Thái Lan tại Chương trình Phát triển các dự án gió do Tập đoàn Tài nguyên quốc tế - Viện Sản lượng công nghiệp VN được tổ chức mới đây.

VN được cho là nước có tài nguyên gió lớn nhất khu vực với sơ đồ gió được xác định ở miền Trung, miền Nam và các hải đảo. Nhưng hiện nay, rất ít nhà kinh doanh muốn đầu tư vào nguồn năng lượng này của VN vì chúng ta chưa có hành lang pháp lý về vấn đề này.

Được biết, hiện nay có 30 tổ chức đang tiến hành đo năng lượng gió của VN nhưng giữa các tổ chức này không có mối liên hệ nào và cũng không có một chuẩn về đo đạc. Còn tại 300 đài khí tượng thủy văn địa phương và Trung ương thì việc đo gió cũng chỉ làm ở mức “nhiệm vụ”, chưa có thống kê chính xác về nguồn tài nguyên dồi dào này.

Theo Người lao động

Xe hơi kinh tế và thân thiện với môi trường


TTO - Một chiếc Peugeot dùng nhiên liệu hỗn hợp được trưng bày tại Triển lãm ô tô quốc tế London (Anh) hôm 18-7. Với chủ đề "Kinh tế" và "Thân thiện với môi trường", triển lãm đã thu hút 40 nhà sản xuất ô tô từ các nơi trên thế giới.

Triển lãm sẽ kéo dài đến ngày 30-7.

Chiếc Ford sử dụng cồn làm nhiên liệu còn nằm trong ý tưởng được trưng bày tại Triển lãm

Một chiếc Vauxhall tại Triển lãm

TƯỜNG VY (Theo Xinhua)

Wednesday, July 19, 2006

h: hạ thủy tàu chạy bằng năng lượng mặt trời lớn nhất

Anh: hạ thủy tàu chạy bằng năng lượng mặt trời lớn nhất

Tàu SolarShuttle đang du ngoạn trên hồ Serpentine ở công viên Hyde, Lodon - Ảnh: AP
TTO - Con tàu được vận hành hoàn toàn bằng năng lượng mặt trời có tên gọi SolarShuttle đã được hạ thủy hôm qua tại London (Anh), là một trong các nỗ lực của con người trong việc chế tạo các phương tiện vận chuyển không gây ô nhiễm.

SolarShuttle được hạ thủy trên hồ Serpentine tại công viên Hyde, Lodon. Dài 14,5 m, toàn bộ thân tàu làm bằng thép, được xem là tàu chạy bằng năng lượng mặt trời lớn nhất của Anh.

Trên mái tàu gắn 27 tấm thu năng lượng mặt trời, và năng lượng này sẽ giúp cho tàu hoạt động. “Đây là con tàu được áp dụng công nghệ hiện đại nhất và có tính năng ưu việt nhất thế giới hiện nay”, nhà thiết kế Christoph Behling nói.

Với tốc độ 8 km/g, con tàu được điều khiển bởi 2 kỹ sư điện này lướt nhẹ nhàng trên mặt nước, không tiếng ồn và không gây ô nhiễm môi trường. Nhà thiết kế cho biết khi không hoạt động, phần điện năng dư thừa của tàu do hấp thụ năng lượng mặt trời sẽ được truyền vào lưới điện quốc gia.

Từ thứ bảy tuần này, con tàu sẽ chính thức hoạt động phục vụ hành khách, và giá vé một chiều cho quãng đường 1 km với trẻ em là 2,75 USD/vé, và 5,5 USD/vé cho người lớn.

Hiện Behling đang nghiên cứu đóng một con tàu chạy bằng năng lượng mặt trời có thể chở được 300 hành khách đi du lịch trên sông Thames, dự kiến hạ thủy năm 2008.

TƯỜNG VY (Theo BBC, AP)

Monday, July 17, 2006

Băng Đảo: thiên đàng mới của các công ty khai thác dầu khí

Băng Đảo: thiên đàng mới của các công ty khai thác dầu khí

Vịnh Disko, nơi có trữ lượng dầu khí khá cao
TTO - Băng Đảo thuộc quyền sở hữu của Đan Mạch đang nằm trong tầm ngắm của các công ty khai thác dầu khí thế giới khi vùng biển phía tây quần đảo này là nơi tập trung trữ lượng lớn dầu hỏa và khí đốt đang chờ khai thác.

Theo Joern Skov Nielsen, trưởng Phòng Khoáng sản và Dầu khí ở Băng Đảo, chính quyền nơi đây chưa bao giờ nghĩ đến những lợi nhuận từ dầu khí tại khu vực này, nhưng trong tình hình giá dầu tăng cao và trữ lượng dầu khí thế giới ngày càng hiếm, giấc mơ trở thành thiên đường dầu hỏa của vùng Bắc Cực của Băng Đảo đang nằm trong tầm tay.

Hiện tại, nhiều công ty dầu khí của Mỹ và châu Âu đã lùng mua các dữ liệu địa chất tại vùng vịnh Disko, nơi sẽ được tiến hành khai thác thăm dò. Những phân tích sơ bộ cho thấy có nhiều dấu hiệu chứng tỏ sự tồn tại của nguồn khí đốt tại khu vực này với trữ lượng lên đến hai tỉ thùng dầu. Theo nhận định của Viện quan sát địa chất của Mỹ, khu vực đông bắc bao bọc bởi nhiều tảng băng, nằm giữa Băng Đảo và Na Uy là nơi có trữ lượng khí đốt hydrocarbure cực lớn, ước tính đến 110 tỉ thùng, tương đương phân nửa trữ lượng của Saudi Arabia

Tuy nhiên, vịnh Disko nằm trong vịnh hẹp và tảng băng Ilulissat được xếp vào hàng Di sản thế giới vào năm 2004. Vì vậy, nhiều tổ chức môi trường quốc tế lo ngại dự án khai thác dầu khí trong vùng này có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại của loài cá voi cùng nhiều sinh vật biển quần cư nơi đây. Người ta cho rằng lợi nhuận mang lại cho 58.000 người dân Băng Đảo sẽ không đủ bù đắp cho hiện tượng khí hậu nóng dần lên ở Bắc Cực sẽ tăng nhanh gấp hai lần so với phần còn lại của thế giới.

ĐỨC TRƯỜNG (Theo AFP)

Saturday, July 15, 2006

Giá dầu lên mức kỷ lục, vàng gần 1,3 triệu đồng/chỉ

Giá dầu lên mức kỷ lục, vàng gần 1,3 triệu đồng/chỉ

Nhân viên bán hàng thay đổi mức giá xăng dầu - Ảnh:AP
TTO - Hơn 78 USD/thùng dầu thô, giá dầu đã đạt mức kỷ lục ngay trong phiên giao dịch sáng nay, mức giá cao nhất trong 26 năm qua.

Nguyên nhân tăng giá vũ bão như vậy, theo các nhà phân tích, là do tình trạng bạo lực vẫn leo thang ở Trung Đông cũng như căng thẳng về tình hình hạt nhân ở Iran làm gián đoạn sản xuất của một số nhà máy tại Nigeria.

Tại Mỹ, giá dầu thô giao tháng 8 sáng nay , 14-7,đứng ở mức 78,10 USD/thùng, giảm hơn so với phiên giao dịch chiều tối hôm qua, giá dầu vọt lên 78,40 USD/thùng. Tại London, giá dầu thô biển Bắc ở mức 77,10 USD/thùng.

Trên sàn giao dịch Châu Á, vào lúc 8g sáng 14-7 , giá dầu giảm xuống còn 77,95 USD/thùng. Tuy nhiên, mức giá này đã cao hơn cùng kỳ năm trước 35%.

Vào hôm qua Nigeria cho biết, công ty Agip của Nigeria có thể sẽ mất 120.000 thùng dầu/ngày sau khi 2 ống dẫn dầu của công ty này bị quân nổi dậy tấn công.Bên cạnh đó, Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad còn đe dọa sẽ cắt đứt quan hệ hợp tác giữa Iran với các cơ quan quốc tế giám sát chương trình hạt nhân của nước này khi vấn đề được đưa ra trước Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc.

Theo các nhà phân tích, giá dầu còn có thể lên mức 80 USD/thùng trong vài ngày tới, không những vậy, mức giá 100 USD/thùng dầu thô còn có thể đạt tới trong cuối năm nay.

Giá dầu tăng cao gây tác động lớn cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Ở những nước nhập khẩu nhiều dầu mỏ và Châu Á, gía dầu cao có thể làm giảm tăng truởng GDP.

Giá xăng trong nước chịu sức ép mới


Giá dầu thô thế giới sáng nay bất ngờ vọt lên mức trên 78 USD/thùng làm nhiều doanh nghiệp xăng dầu trong nước bắt đầu nóng ruột. Nhưng cơ quan quản lý cho rằng, cần phải theo dõi chặt diễn biến thị trường, trong trường hợp thật cần thiết mới tính đến phương án điều chỉnh giá bán lẻ.

Theo tính toán của một doanh nghiệp nhập khẩu đầu mối, giá dầu thô giao dịch sáng nay tại thị trường Singapore ở mức trên 78 USD/thùng, còn dầu thành phẩm là 88,25 USD/thùng. Đối với mặt hàng xăng A92, giá đang ở mức gần 86 USD/thùng, nếu cộng thêm các khoản như phí giao thông (5 USD/thùng), thuế VAT 10%, thuế tiêu thụ đặc biệt 10%... giá cập cảng về VN sẽ lên tới trên 100 USD/thùng (một thùng dầu tương đương 159 lít).

Với mức nhập khẩu như trên, giá bán lẻ mỗi lít xăng chưa kể chi phí kho bãi, phí hoạt động, maketting... tương đương gần 13.000 đồng/lít. Như vậy, so với giá bán lẻ hiện nay, các doanh nghiệp lỗ gần 2.000 đồng/lít xăng.

"Với diễn biến thị trường như thế này, nếu cơ quan quản lý Nhà nước không có cách điều hành hợp lý, chúng tôi chỉ còn nước phát điên" - Giám đốc Công ty Xăng dầu Quân đội Đặng Đình Dung không giữ nổi bình tĩnh nói.

Trao đổi với báo giới, một quan chức Bộ Tài chính cho rằng, thị trường nhiên liệu thế giới diễn biến bất thường và đang rất căng thẳng buộc cơ quan quản lý phải tính toán đến giải pháp phù hợp. Tuy nhiên, theo ông nếu tính trong cả một chu kỳ dài, chưa có doanh nghiệp nào bị lỗ.

"Thị trường xăng dầu giống như một vở kịch, cứ lặp đi lặp lại hằng năm. Và bao giờ cũng vậy khi giá lên thì doanh nghiệp kêu lỗ nhưng khi xuống thì chẳng ai chia sẻ niềm vui này. Đành rằng giá dầu thô đã đạt ngưỡng trên 78 USD/thùng, nhưng thử hỏi trong sáng nay đã có doanh nghiệp nào phải nhập với giá này? Trong khi đó, Nhà nước đã hạ thuế nhập khẩu xuống 0% ngay từ những tháng đầu năm. Trong mấy năm qua, trừ mặt hàng dầu, tính tổng thể trong một chu kỳ thì chẳng doanh nghiệp nào bị lỗ vì kinh doanh xăng cả", ông nói.

Dù vậy, ông cũng tiết lộ, cơ quan quản lý vẫn đang theo dõi sát diễn biến từng ngày, từng giờ để có cách điều hành giá cho hợp lý. Trong điều kiện thật cần thiết mới áp dụng phương án điều chỉnh giá bán lẻ đối với mặt hàng xăng.

Theo VnExpress

Tin bài liên quan:
Giá dầu và vàng cùng giảm
Giá dầu vừa xuống dưới mức 75 USD/thùng
Hôm nay, gần 74 USD/thùng dầu
Dầu đã lên 73,23 USD/thùng
Giá dầu lại vượt trên 72 USD/thùng

Thursday, July 13, 2006

Sản xuất biodiesel từ dầu ăn phế thải

Sản xuất biodiesel từ dầu ăn phế thải

TT - Sau hai năm nghiên cứu, kỹ sư Nguyễn Trung Trực (nhà ở Bùi Hữu Nghĩa, quận 5, TP.HCM) đã nghiên cứu và sản xuất thành công dầu biodiesel từ dầu ăn phế thải, mỡ cá, mỡ động vật...

Bằng cách dùng cồn và dung môi gia nhiệt dầu ăn để tách nước, chất bẩn ra khỏi dầu, dầu biodiesel do kỹ sư Trực chế ra có màu vàng trong, không có mùi hôi. Khi sử dụng cho động cơ, máy nổ giòn và có khói bạc.

Anh Âu Lâu Khuê, nhà ở huyện Long Điền, xã Phước Hải, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, người thường xuyên mua dầu biodiesel do kỹ sư Trực chế, cho biết anh mua dầu biodiesel để sử dụng cho ghe đi biển đã gần một năm nay. So với dầu diesel có nguồn gốc dầu mỏ, dùng dầu diesel sinh học ít hao hơn 10%.

THU THẢO

Năng lượng gió ở VN: đủ gió để biến thành tiền

Năng lượng gió ở VN: đủ gió để biến thành tiền

TTO - Tại buổi tọa đàm về phát triển các dự án gió ở Việt Nam ngày 12-7, Giám đốc Trung tâm phát triển nguồn tài nguyên năng lượng và Môi trường Thái Lan, Thierry Lefevre cho biết: các kết quả khảo sát sơ bộ của nhóm dự án cho thấy VN được xem là nơi có tiềm năng về gió tốt nhất khu vực Đông Nam Á.

Ông khẳng định: năng lượng gió ở VN đủ để phát triển các dự án mang tính thương mại

Ông Trịnh Văn Sơn, đại diện của Bộ công nghiệp nói: Tiềm năng xây dựng phong điện ở VN từ nay tới năm 2030 là khoảng 400 MW. Hiện một số công trình về phong điện đã bước đầu triển khai như: Cột gió ở Bạch Long Vĩ (công suất 850 kW), dự án phong gió công suất 15 MW ở bán đảo Phương Mai (Qui Nhơn), trang trại gió 20 MW ở Khánh Hòa...

THU THẢO

Wednesday, July 05, 2006

Giao lưu: Học cách biến gió, mặt trời... thành tiền

Giao lưu: Học cách biến gió, mặt trời... thành tiền
10:20' 15/06/2006 (GMT+7)

(VietNamNet) - Vào lúc 15h chiều nay, VietNamNet đã có buổi giao lưu trực tuyến với TS Herrmann Scheer - Nghị sĩ Quốc Hội Đức đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Quốc tế về Năng lượng tái tạo và GS Phạm Duy Hiển - Chủ tịch Hội đồng Khoa học Cục kiểm soát an toàn bức xạ, hạt nhân. Chủ đề của buổi giao lưu này là "Có thể biến gió, mặt trời... thành tiền? - Thực trạng Việt Nam và kinh nghiệm thế giới".

>>Việt Nam: Chưa biến được gió, mặt trời... thành tiền!
>>Cần khuyến khích tư nhân đầu tư năng lượng tái tạo

Trước tình hình giá dầu trên thế giới đang tăng giá, các nước trên thế giới đều lo tìm kiếm các nguồn năng lượng để thay thế. Riêng Việt Nam, không chỉ chịu chi phối bởi giá dầu mỏ trên thế giới... Tin tức báo chí trong những ngày gần cho biết, do sự cố tại Nhà máy điện Phú Mỹ và Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại nên ngành điện phải cắt giảm khoảng 600 -800 MW mỗi ngày trên toàn hệ thống.

Bối cảnh trên đã khiến nhiều nước trên thế giới, trong đó có VN chú ý đến năng lượng tái tạo. Năng lượng tái tạo hay còn gọi là năng lượng hoàn nguyên (nghĩa là năng lượng được tạo ra từ các nguồn không bị mất đi như gió, nước, ánh nắng mặt trời; nhiên liệu sinh học (biodiesel; biogas...) nhằm giảm bớt áp lực từ năng lượng hoá thạch như dầu mỏ, than đá...

GS. Phạm Duy Hiển TS Herrmann Scheer

Làm thế nào để biến gió, nước, ánh nắng mặt trời... thành tiền? Thực trạng ở Việt Nam và kinh nghiệm thế giới? Xin mời các bạn gửi câu hỏi vào bảng dưới đây, Tiến sĩ Hermann ScheerGS Phạm Duy Hiển sẽ chia sẻ với bạn đọc những thắc mắc này.

Tiến sĩ Hermann Scheer sinh năm 1944 tại Đức, Ông là nhà kinh tế học và xã hội học nổi tiếng người Đức. Năm 1980, TS Scheer là Nghị sĩ Quốc hội Đức đồng thời là đại biểu đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD).

Trong 30 năm gần đây, ông là người có lòng say mê tìm kiếm các giải pháp phát triển năng lượng đáp ứng thoả mãn nhu cầu của con người ngày càng tăng mà không có ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.

Chính từ lòng say mê này ông đã liên tục gặt hái được rất nhiều giải thưởng quốc tế về năng lượng tái tạo như: Giải Quốc tế về năng lượng mặt trời năm 1998, Giải Nobel mở rộng về năng lượng năm 1999, Giải quốc tế về Năng lượng sinh học năm 2000, Giải „Hero for the Green Century“ của tạp chí TIME, Giải quốc tế về Năng lương gió năm 2004.

Từ 1988, ông là Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng tái tạo Châu Âu (EUROSOLAR) và từ 2001, là Chủ tịch Ủy ban Quốc tế về năng lượng tái tạo.

Soạn: AM 807257 gửi đến 996 để nhận ảnh này

Năng lượng gió đã trở nên quen thuộc ở nhiều nước.

Hiện nay, ông là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất tới các chính sách phát triển năng lượng tái tạo của Đức và trên thế giới.

Quan điểm của Tiến sĩ Hermann Scheer “Xét về trung hạn, năng lượng tái tạo có thể đáp ứng nhu cầu năng lượng cho nhân loại một cách có lợi cho môi trường và có hiệu quả về kinh tế “ khiến ông trở thành đối thủ rõ ràng của năng lượng nguyên tử.

Và một vị khách mời quan trọng nữa là GS Phạm Duy Hiển - nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt (1980-1991), nguyên Phó viện trưởng Viện nguyên tử Quốc gia (1976-1993), hiện là Chủ tịch Hội đồng Khoa học Cục kiểm soát an toàn bức xạ, hạt nhân.

Mời bạn đọc theo dõi nội dung cuộc giao lưu dưới đây:

Soạn: AM 807667 gửi đến 996 để nhận ảnh này

GS Phạm Duy Hiển đang giao lưu cùng độc giả VietNamNet

Kha Nguyen - Nam 25 tuổi - Tp Hồ Chí Minh:
- Xin hỏi GS Phạm Duy Hiển. 1/ Ông nghĩ gì về dự án xây nhà máy điện hạt nhân ở VN?. 2/ Phân tích của TS Hermann Scheer trên báo điện tử VNExpress đã nêu ra những lợi ích của "năng lượng tái tạo", ông nghĩ sao khi TS nói "VN không nên xây nhà máy điện nguyên tử"?.
GS Phạm Duy Hiển: - Về hai câu hỏi này tôi sẽ trả lời thành một. Ông Hermann Scheer nói không nên xây nhà máy điện nguyên tử ở VN song theo tôi, năng lượng tái tạo rất cần phát triển. Việc xây dựng những nhà máy điện nguyên tử trước sau gì Việt Nam vẫn phải làm. Tôi rất muốn phát triển năng lượng tái tạo nhưng tôi không cho rằng năng lượng tái tạo có thể thay thế năng lượng hạt nhân, nhất là trong vài thập niên tới. Vì mỗi năm hiện nay, ta cần chừng 3000 MW điện để phục vụ phát triển kinh tế. Yêu cầu đó năng lượng tái tạo chưa đạt được trong thời gian tới.

Do vậy vẫn phải xây nhà máy điện hạt nhân và xây như thế nào thì tôi sẽ nói sau.

Nguyễn Văn Quân - Nam 26 tuổi - Trung Hoà - Cầu Giấy -Hà Nội:
- Vấn đề quan tâm nhất của dư luận tới việc phát triển năng luợng hạt nhân là vấn đề an toàn. Việc xảy ra vụ mất cắp chất phóng xạ gần đây ỏ Viện Xạ hiếm có ảnh huởng gì tới lòng tin của nhân dân và dư luận về việc Việt nam tiếp tục phát triển năng luợng nguyên tử thưa GS Phạm Duy Hiển?
GS Phạm Duy Hiển: - Về câu hỏi này tôi đã từng trả lời phóng sự trên VTV1 lúc 9h30 sáng thứ Bảy vừa qua. Hôm đó, tôi đã nói là kẻ thù số 1 của những người làm hạt nhân là chủ quan. Sự việc mất cắp chất phóng xạ bán ra đồng nát khẳng định đúng nhận xét này của tôi. Việc đó cũng nói rằng đã làm hạt nhân thì nguy cơ về vấn đề mất an toàn là phải luôn luôn chú ý. Bây giờ chưa làm điện hạt nhân mà đã xảy ra điều như vậy thì đến lúc bắt tay vào làm thì sẽ như thế nào.

Cây Cầu Văn Thánh hỏng ta có thể phá đi xây mới. Với điện hạt nhân không thể làm như vậy. Trên thực tế, điện hạt nhân ở ta hiện nay vẫn chưa an toàn. Do đó, nếu lúc nào cũng nói điện hạt nhân rất an toàn thì tự chúng ta đã đưa kẻ thù vào trong người mình. Quan trọng nhất là làm cho các cấp lãnh đạo cảnh giác.

Soạn: AM 807827 gửi đến 996 để nhận ảnh này
GS Phạm Duy Hiển và TS Herman Scheer đang giao lưu cùng độc giả VietNamNet.

Kha Nguyen - Nam 25 tuổi - Tp Hồ Chí Minh:
- Xin hỏi GS Phạm Duy Hiển, theo ông VN nên xây nhà máy điện hạt nhân hay không?
GS Phạm Duy Hiển: - Như tôi đã nói, trước sau VN cũng sẽ làm điện hạt nhân. Và điều này phù hợp với xu hướng hiện nay của thế giới. Ngay hai nước Mỹ và Anh suốt 3 thập niên vừa qua đã bỏ qua con đường này, bây giờ cả hai đều tuyên bố sẽ quay trở lại. Vì khủng hoảng năng lượng đang xảy ra mà năng lượng tái tạo thì chưa đủ sức vào để tạo ra nguồn năng lượng thoả mãn yêu cầu phát triển kinh tế.

Nhưng ở đây có hai vấn đề:

1. Điện hạt nhân hiện nay chưa thật an toàn và chưa thật kinh tế như một số người vẫn thường nói. Một nhà máy điện hạt nhân nếu đảm bảo an toàn về mặt kỹ thuật cao nhất thì cũng có nghĩa là đắt nhất, nghĩa là hiệu quả kinh tế chưa cao. Về an toàn thì tôi đã nói rồi, giữa tính an toàn và tính kinh tế có mối liên quan với nhau. Bảo đảm an toàn cao chừng nào thì giá đầu tư cho nhà máy điện cao chừng đó.

2. Thời điểm nào có điện hạt nhân! điều này không thể dựa trên một luận cứ là đến năm nào đó, chẳng hạn 2020, ta thiếu 36 tỷ KWh mà chưa có nguồn nào để giải quyết thiếu hụt này. Điều này không chính xác bởi: một là, dự báo cho năm 2020 cần đến 2trăm tỷ KWh mà cũng cho thấy là thiếu 36 tỷ KWh, thì không thể có một dự báo chính xác sau 15 năm nữa. Hai là việc có điện hạt nhân hay không còn tuỳ thuộc vào các yếu tố khác, trước hết là về con người. Về con người, có ba yêu cầu: trình độ hiểu biết về công nghệ; tinh thần trách nhiệm để tránh xảy ra sơ xuất; và hệ thống tổ chức quản lý. Nếu chúng ta còn thiếu và cảm thấy chưa yên tâm về ba mặt này thì chúng ta vẫn chưa bắt đầu điện hạt nhân được.

Về trình độ công nghệ, cần phân biệt 2 loại: Điều hành nhà máy thì hãng cung cấp thiết bị có thể giúp đào tạo hàng trăm người trong vòng vài ba năm trước khi nhà máy hoạt động. Nhưng loại thứ hai là loại chuyên gia cao cấp thì hiện nay ta chưa có mà đào tạo thì rất lâu. Cũng chưa rõ cách nào để đào tạo. Đó là những người sau này sẽ ra quyết định chứ không phải là những người thừa hành. Ngay cả việc xét duyệt các dự án thiết kế mà phía người cung cấp đưa cho ta thì ta cũng rất cần chuyên gia có đủ trình độ. Chúng ta không thể làm điện hạt nhân mà phó thác những việc này cho người nước ngoài. Không thể để người nước ngoài dắt tay ta đi.

Về tinh thần trách nhiệm, ở đây có cả ý thức tổ chức kỷ luật của con người. Mặt này chúng ta rất yếu. Vì chúng ta chưa kinh qua nền kinh tế công nghiệp cho nên con người nói chung dễ tuỳ tiện. Mặt khác luật pháp của chúng ta chưa nghiêm. Chúng ta đang xây dựng luật hạt nhân và đây phải là luật gắt gao nhất nhằm tạo ra một hệ thống pháp lý, khắc phục nhược điểm thiếu tổ chức kỷ luật của con người.

Về tổ chức quản lý thì đây là vất đề rất đáng ngại, căn cứ vào những gì mà báo chí phản ánh hàng ngày. Ở đâu có tiền và tiền nhiều, ở đó có tham nhũng và lãng phí. Liệu điện hạt nhân có tránh khỏi kịch bản này không? Hiện nay tôi chưa tin. Và như đã nói ở trên, một công trình bình thường, nếu lãng phí và tham nhũng có thể chưa nguy hiểm nhưng nhà máy điện hạt nhân nếu lãng phí và tham nhũng thì cực kỳ nguy hiểm. Do vậy, bao giờ có điện hạt nhân thì câu trả lời không thể duy ý chí được. Và nhất là không được để cho các hãng cung cấp thiết bị hạt nhân của nước ngoài tìm cách thuyết phục ta với mục đích riêng của họ.

Nguyễn Đức Trung - Nam 26 tuổi - Hà Trung, Hà Nội:
- Thưa ông Phạm Duy Hiển, hôm qua Tiến sĩ Lê Văn Hồng có trình bày về kế hoạch nghiên cứu xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên ở Việt Nam. Theo đó, đến năm 2020 nhà máy có thể sẽ đi vào hoạt động. Cá nhân ông có ủng hộ dự án này không? Và ông đánh giá thế nào về khả năng thành công cũng như lợi ích của dự án này với tương lai của Việt Nam?
GS Phạm Duy Hiển: - Tôi ủng hộ là trước sau gì cũng phải có điện hạt nhân. Nhưng bao giờ có thì như tôi đã nói trên. Tôi không thiên về bất cứ thời hạn nào để đặt ra một cách duy ý chí. Và tôi cho rằng ngành năng lượng nguyên tử cần chuẩn bị tích cực hơn nữa về đào tạo nhân lực và nâng cao trình độ chuyên môn thì thời điểm đó mới sớm xảy ra. Mặt khác, tôi cũng tin rằng những tệ nạn, tiêu cực, tham nhũng trong xã hội rồi dần sẽ khắc phục, có thể giúp cho người dân tin tưởng là chúng ta làm điện hạt nhân một cách an toàn.

Nguyễn Văn Quân - Nam 26 tuổi - Trung Hoà - Cầu Giấy - Hà Nội:
- Thưa GS Phạm Duy Hiển, theo tôi đuợc biết Việt Nam đã chuẩn bị để xây dựng nhà máy điện nguyên tử. Vì vậy việc phát triển các ngành năng luợng mới có phải là đối thủ của năng luợng hạt nhân hay không? Năng luợng hạt nhân đã chuẩn bị gì và đã sẵn sàng cho cuộc chạy đua về các nguồn năng luợng?
- Để trả lời câu hỏi này, tôi phải nói tại sao ông Herman Scheer lại được mời đến VN. Ông Scheer là một người trước đây chuyên nghiên cứu về hạt nhân song mấy chục năm gần đây ông chuyển sang năng lượng tái tạo. Một người như vậy dĩ nhiên có thể cung cấp cho chúng ta về cả hai ngành năng lượng. Và ông được mời đến để nói đầy đủ các khía cạnh về hai ngành năng lượng đó. Cho đến nay, những bàn luận về điện hạt nhân thường là một chiều. Chính phủ và nhân dân VN cũng cần biết những thông tin khác. Đó có thể nói là lý do mà ông Scheer được mời đến VN.

Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu hạt nhân trong nhiều năm, thậm chí gần 50 năm. Nhưng theo dõi những diễn biến trên thế giới trong nhiều năm gần đây tôi cho rằng vấn đề qua trọng hơn năng lượng hạt nhân là làm thế nào để đất nước phát triển năng lượng một cách bền vững. Tôi rất muốn đất nước có điện hạt nhân phù hợp với quy luật phát triển khách quan song tôi còn muốn năng lượng khác cũng được phát triển, nhất là năng lượng tái tạo.

Chúng ta đã nói đến rất nhiều ưu việt của năng lượng tái tạo và có thể ông Scheer sẽ nói thêm. Và như vậy, VN phải ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo trong khi không bỏ qua phương án năng lượng hạt nhân. Do đó, hai lĩnh vực không có gì cạnh tranh nhau. Cái nào phát triển lúc nào, đó là khách quan sẽ quyết định và cũng có một phần ý chí chủ quan của dân và chính phủ. Và chúng ta đang thiếu năng lượng thì rõ ràng ở đây không có sự cạnh tranh.

Đinh Thị Quế - Nữ - Thanh tra quận Hải Châu- Đà Nẵng:
- Thưa ông Phạm Duy Hiển, hiện tại trên thế giới có nhiều nuớc đã có thể tái tạo lại gió, nuớc, ánh mặt trời thành năng luợng phục vụ con nguời chưa? Các nhà khoa học Việt Nam đã tiếp cận đuợc với ý tuởng này đến đâu rồi?
GS Phạm Guy Hiển: - Con người không tái tạo gió, nước và ánh sáng mặt trời mà con người sử dụng chúng để sản sinh ra năng lượng. Có điều các năng lượng này tồn tại gần như vĩnh cửu, dùng xong rồi thì lại có. Không giống như chúng ta đốt than hay dầu, đốt xong là mất.

Các nhà khoa học VN cũng đã nghiên cứu sử dụng năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, hiện nay Các công nghệ này vẫn chưa đạt đến trình độ đưa vào sản xuất lớn. Có lẽ đây là hướng sắp tới phải tính đến.

Nguyễn Đức Thành Chung - Nam 45 tuổi - Cầu Giấy - Hà Nội:
- Thưa ông Phạm Duy Hiển, là một chuyên gia về năng lượng hạt nhân, ông có nhận xét gì về hướng phát triển năng lượng của Đức? Liệu Việt Nam có nên đi theo hướng này không? (Vì gần đây, Trung Quốc cũng bắt đầu chuyển hướng sang việc phát triển năng lượng tái tạo)?
GS Phạm Duy Hiển: - Tôi có theo dõi việc nước Đức từ bỏ năng lượng hạt nhân để chuyển sang năng lượng tái tạo. Hiện nay, nước Đức đã có thành công bước đầu: chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm họ đã đưa tổng sản lượng điện năng từ năng lượng tái tạo lên 12 tỷ KWh.

Đấy là một thành công và nếu họ tiếp tục thành công nữa trong tương lai thì họ sẽ để lại một bài học lớn cho thế giới. Tôi cho là VN cần phải học tập kinh nghiệm của họ và của cả Trung Quốc. Ngay cả Trung Quốc cũng đã học hỏi kinh nghiệm từ Đức.

Nguyễn Đức Trung - Nam 26 tuổi - Hà Trung, Hà Nội:
- Thưa ông Phạm Duy Hiển “Nhiều nhà khoa học trong nước đã đề xuất với Chính phủ dự án phát triển năng lượng tái tạo, nhiên liệu sinh học nhưng chưa được chú trọng. Nếu mỗi năm dành 1% tổng vốn đầu tư cho các ngành năng lượng (năm 2005 khoảng 60.000 tỷ đồng) thì sau 10 - 20 năm các vùng sâu, vùng xa, các hải đảo có điện từ gió và mặt trời, có thể thay thế 10 - 20% xăng dầu khoáng bằng nhiên liệu sinh học… “ (tin đã đăng trên VNN). Vẫn là vấn đề chính sách… Thưa ông, quan điểm của ông có phải là Nhà nước nên dành kinh phí để đầu tư và đầu tư nhiều hơn nữa vào năng lượng tái tạo? Theo ông, thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trò như thế nào trong việc phát triển năng lượng tái tạo ?

Soạn: AM 807815 gửi đến 996 để nhận ảnh này
GS Phạm Duy Hiển

GS Phạm Duy Hiển: - Hiện nay, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chương trình trọng điểm cấp nhà nước về Khoa học công nghệ, trong đó có chương trình năng lượng. Tôi cho rằng, sắp tới chương trình năng lượng nhà nước sẽ chú trọng nhiều hơn nữa đến phương hướng năng lượng tái tạo sao cho sau một thời gian, dạng năng lượng này có thể được đưa vào sử dụng và càng ngày càng đóng góp lớn vào tổng năng lượng tiêu thụ ở nước.

Về phía nhà nước cũng cần phải có chính sách để khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng năng lượng tái tạo. Ở nhiều nước hiện nay đã có luật về năng lượng tái tạo, nghe nói ở Trung Quốc luật cũng sắp được thực thi. Trong luật này, có quy định người dân không chỉ có quyền được sử dụng điện năng mà còn có quyền đựoc bán lại điện năng từ năng lượng tái tạo vào mạng điện nói chung.

Anh Kiệt - Nữ, 47 tuổi - Số 2 - Giảng Võ:
- Thưa giáo sư Phạm Duy Hiển: Nuớc ta có lợi thế về giờ chiếu sáng của mặt trời, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển năng luợng mặt trời là loại năng luợng sạch. Vậy kế hoạch đầu tư cho phát triển năng luợng này như thế naò? Làm thế nào để hạ giá thành tấm pin mặt trời để vùng sâu vùng xa nơi khó kéo điện luới đuợc sử dụng?. Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân trong tình hình tham nhũng như ở nuớc ta hiện nay làm nguời dân rất lo ngại chất luợng máy móc, chất luợng công trình. Tổ chức IEAE có thể can thiệp giám sát hạt nhân để đảm bảo an toàn trong công việc dân sự như nhà máy điện nguyên tử nuớc ta không ạ. Vì nếu xảy ra sự cố thì đâu có chỉ nguời dân vùng đất có nhà máy điện nguyên tử chịu nạn? Xin cảm ơn giáo sư. Kính chúc giáo sư sức khoẻ.
GS Phạm Duy Hiển: - Đúng là nước ta có lợi thế về năng lượng mặt trời, so với nước Đức chẳng hạn. Tuy nhiên, hiện nay năng lượng này vẫn chưa được khai thác tốt. Ta có nhập thiết bị từ bên ngoài nhưng mà giá thành vẫn cao. Mặc dù vậy, thế giới hiện đang nghiên cứu rất nhiều và tôi tin trong thời gian tới, giá thành pin mặt trời sẽ hạ, khi ấy thì năng lượng mặt trời có thể hoà vào mạng lưới điện và có thể dùng ở những vùng sâu vùng xa.

Phuong Anh - Nữ 29 tuổi - Hà Nội
- Thưa GS PHạm Duy Hiển, trong khi ông nêu lên rằng Mỹ và Anh tuyên bố sẽ xây dựng nhà máy điện hạt nhân thì một số nuớc ở châu Âu như Đức, Áo, Thụy Điển tuyên bố là sẽ dựa vào năng luợng tái sinh. Thậm chí Thụy Điển còn đặt mục tiêu là giảm hoàn toàn việc sử dụng dầu mỏ vào năm 2020. Và trên thực tế họ đã chứng tỏ là điều đócó tính khả thi. Vậy tại sao Việt Nam lại cứ phải nhất thiết dựa vào điện hạt nhân thay vì điện tái sinh?.
GS Phạm Duy Hiển: - Như tôi đã nói, để phát triển kinh tế trong những năm tới cần phải có một lượng điện năng rất lớn. Mỗi năm phải xây thêm chừng 3000-5000 MW điện. Năng lượng tái tạo vẫn chưa thể là phương án độc tôn để giải quyết yêu cầu này.

Phuong Anh - Nữ 29 tuổi - Hà Nội
- Xin hỏi tiếp GS Phạm Duy Hiển, vậy thì Việt Nam sẽ xử lý rác thải hạt nhân như thế naò, liệu ông có luờng hết đuợc những tác động của rác thải hạt nhân tới môi truờng của Việt Nam không?.
GS Phạm Duy Hiển: - Về điện hạt nhân thì có thể có hai loại chất thải. Loại hoạt độ thấp và hoạt độ cao. Hoạt độ thấp thì tự ta có thể xử lý được còn hoạt độ cao thì đây là bài toán của thế giới. Chúng ta cũng phải chờ cách xử lý bài toán này như thế nào của các nước tiên tiến.

Chắc là nếu sau năm 2020 chúng ta có điện hạt nhân và cũng vào thời gian đó thì nhiều nước tiên tiến trên thế giới quay trở lại điện hạt nhân nên sẽ giúp sớm giải quyết thành công bài toán chất thải hạt nhân hoạt độ cao.

Đỗ Hoàng Việt - Nam 31 tuổi - Thanh Xuân _Hà Nội:
- Xin hỏi Giáo sư Phạm Duy Hiển: Tôi rất quan tâm đến Năng lượng tái tạo và đặc biệt là phong điện ( Điện gió ), Tôi xin hỏi Giáo sư một số vấn đề sau:. 1. Tại đất nước ta có những điểm nào có tiềm năng về gió để có thể thực hiện việc đầu tư xây dựng nhà máy phong điện?. 2. Đã có cơ quan hay tổ chức nào đã tiến hành đo đạc, đánh giá tiềm năng gió trong các tỉnh thành trong cả nước hay chưa?
GS Phạm Duy Hiển: - Tôi được biết ở Bình Định đang có dự án xây dựng nhà máy phong điện, công suất ban đầu lên tới 70 MW. Việc này gần đây được tỉnh Bình Định khẳng định. Khi dự án này đi vào hoạt động thì sẽ giúp chúng ta có nhiều bài học tốt về sử dụng năng lượng phong điện.

Nguyễn Đức Trung - Nam 26 tuổi - Hà Trung, Hà Nội:
- Chào GS Phạm Duy Hiển, thưa ông xin ông cho biết, mức độ tổn thất điện năng ở ta có thể đến 15.8%, trong khi ở nhiều nước trên thế giới mức tổn thất chỉ vào khoảng 7-9%. Một nhà khoa học khác cũng chỉ ra, để làm ra 1 USD giá trị gia tăng, VN tiêu tốn năng lượng nhiều hơn các nước trong khu vực khoảng 30-40%. VN không thể duy trì tăng trưởng GDP cao với cường độ năng lượng cao như hiện nay… Ông đánh giá như thế nào về tình trạng lãng phí năng lượng ở VN? Nguyên nhân là do đâu? Và, đâu là biện pháp để khắc phục, theo ông?
GS Phạm Duy Hiển: - Theo một nghiên cứu mới đây của Dự án Tiết kiệm năng lượng thương mại thí điểm do Quỹ Môi trường toàn cầu tài trợ, các giải pháp kỹ thuật chống tổn thất do sử dụng điện không hợp lý có thể tiết kiệm được 170 tỷ KWh trong 5 năm tới. Về độ tin cậy của con số này thì chúng ta còn phải chờ xem. Tuy nhiên, con số này nói lên tổn thất của chúng ta rất là lớn.

Gần đây, khách sạn New World ở TP.HCM có thực hiện một số biện pháp tiết kiệm điện và nâng cao hiệu quả sử dụng điện. Kết quả cho thấy, trước đây trong 1 ngày họ phải dùng 42.000 KWh, nay chỉ còn 29.000 KWh, như vậy lượng thất thoát chiếm tới 30%. Nếu mọi hộ tiêu thụ khác đều tiến hành tương tự thì chắc chắn tình hình sẽ rất sáng sủa. Chúng ta sẽ không cần sử dụng nhiều điện như EVN đã quy hoạch cho năm 2010 và 2020.

Tiêu thụ nhiều điện không nói lên trình độ phát triển của đất nước. Tiêu thụ ít điện mà sản sinh ra nhiều của cải, đó mới là trình độ phát triển cao. Do đó, chúng ta phải luôn luôn xem xét hiệu quả sử dụng điện năng như một tiêu chí đánh giá trình độ phát triển bền vững của đất nước.

Do Xuan An - Nam 48 tuổi - 508 Truong Chinh, Hà Nội:
- Thưa GS Phạm Duy hiển.. Tôi xin hỏi GS 1 số câu hổi tiêp theo:. 1- Ảnh huởng môi truờng của phong điện ( Điện gió )là gi .. 2- Khoảng cách bao nhiêu thì không bị ảnh huởng độ ồn của nhà máy phong điện công suất khoảng 100mw, công suất 1 tổ máy từ 1,5- 2 mw cột tháp cao 85m.. 3- Trong phạm vi của nhà máy phong điện có thể nuôi cây, sẩn xuất, chăn nuơi gia suc, du lịch sinh thái có thể kết hợp đuợc không.. 4- Tốc độ tăng truởng của phong điện hàng năm trên thế gió và của việt nam,. 5- Giá thành bình quân cho 1 MW điện gió , so với 1MW của thuỷ điện cao hơn hoặc thấp hơn.. 6- Những vùng nào của Việt Nam có thể đầu tư đuợc điện gió? Cảm ơn ông trả lời. . . . .
GS Phạm Duy Hiển: - Tôi biết là các cối xay gió có gây ra tiếng ồn làm cho nhiều người khó chịu nhưng xin được nhường câu trả lời này cho Tiến sĩ Scheer!

Lê Quang Minh - Nam 18 tuổi - TP.HCM:
- Xin chào GS Phạm Duy Hiển & TS Herrmann Scheer. Cho cháu hỏi thăm, Pin mặt trời có phải là 1 dạnh năng lượng tái tạo không ạ. Và cách tạo ra Pin mặt trời như thế nào ạ. Cháu có học Vật lý nhưng không biết chất hóa học đó là chất gì & có thể mua ở đâu. Xin vui lòng trả lời giúp cháu.
GS Phạm Duy Hiển: - Đúng, pin mặt trời là một dạng năng lượng tái tạo vì mặt trời luôn luôn chiếu sáng trái đất.

Hiện nay có hai cách sử dụng năng lượng đó: Một là biến trực tiếp năng lượng ánh sáng ra nhiệt năng. Một số hộ gia đình và khách sạn hiện nay đang dùng biện pháp này để đun nước... Hai là sử dụng chất bán dẫn để biến ánh sáng thành dòng điện. Về nguyên tắc hoạt động của pin mặt trời, cháu có thể tham khảo trong các sách giáo khoa vật lý.

VO KIEN QUOC - Nam 26 tuổi - TP HCM:
- Tôi đang chế tạo máy lạnh hấp thụ NH3-H2O loại gián đoạn dùng năng lượng mặt trời (collector phẳng). Xin giáo sư hãy cho tôi những lời khuyên trong điều kiện VN cần phải làm như thế nào ?
GS Phạm Duy Hiển: - Tôi sẽ tìm chuyên gia giới thiệu với anh. Anh liên hệ lại theo điện thoại 0913320067. Tôi không phải là chuyên gia trong lĩnh vực này.

ĐINH HỒNG NHÂN - Nam 33 tuổi - ĐỒNG NAI:
- 1. Theo tôi biết điện mặt trời vẫn còn rất xa lạ với nhiều nguời. Do giá thành cho hệ thống này rất cao. Vậy làm sao có thể biến ánh nắng mặt trời thành tiền? Thưa GS Phạm Duy Hiển, GS đến với buổi giao lưu hôm nay có thể cung cấp thêm thông tin về viễn cảnh điện mặt trời?. 2. Hiện nay muốn đầu tư 1 hệ thống điện mặt trời cho gia đình có mức tiêu thụ 300kw/tháng cần khoảng bao nhiêu tiền? Đơn vị nào cung cấp thiết bị và kỷ thuật?. . Cám ơn GS.
GS Phạm Duy Hiển: - Nói biến ánh sáng mặt trời thành tiền như tiêu đề của buổi giao lưu hôm nay thì thật là "lãng mạn". Là nhà khoa học, tôi chỉ có thể nói được rằng sử dụng ánh sáng mặt trời để biến thành điện để sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau.

Viễn cảnh về sử dụng điện mặt trời ở VN rất lớn. Lâu nay tôi được biết là đã có nhiều nhà khoa học VN tìm cách khai thác năng lượng mặt trời qua các pin mặt trời nhưng chúng ta chưa sử dụng trên một quy mô rộng để thực sự đóng góp vào tổng lượng điện năng tiêu thụ ở trong nước. Việt Nam cần nghiên cứu và có chính sách thích hợp để phát triển năng lượng tái tạo nói chung và năng lượng mặt trời nói riêng.



Đoàn Thanh Tùng - Nam 27 tuổi - 93 Lý Nam Đế:
- Kính thưa TS Herrmann Scheer, theo ông khả năng khai thác ứng và dụng công nghệ để có "năng luợng xanh'''' ở Việt Nam ở mức nào? Với điều kiện khí hậu và thời tiết luôn tiềm ẩn những bất ổn như ở Việt Nam, mô hình phát triển năng luợng xanh nào là tối ưu và hợp lý (năng luợng mặt trời, sức gió, hay năng luợng sóng biển, năng luợng thuỷ triều...)?
TS Herrman Scheer: - Tôi tin Việt Nam hoàn toàn có thể cung cấp năng lượng từ nguồn nguyên liệu xanh ngay cả khi nhu cầu cao hơn nhiều so với ngày hôm nay. Ở Việt Nam có thể dùng tất cả các loại năng ượmg tái tạo mà hiện nay chúng ta đã biết từ ánh mặt trời cho đến năng lượng của gió, năng lượng thuỷ điện... Tôi nghĩ Vịêt Nam nên dùng hỗn hợp từ nhiều mô hình.

Nguyễn Đức Trung - Nam 26 tuổi - Hà Trung, Hà Nội:
- Ông là một trong số ít người tin tưởng rằng, năng lượng tái tạo có thể thỏa mãn toàn bộ nhu cầu về năng lượng của con người? Nếu đúng thế, trong tương lai, người ta có thể không cần đến các dạng năng lượng khác như năng lượng hóa thạch hoặc năng lượng hạt nhân?
TS Herrman Scheer: - Tôi không phải việc gì phải suy nghĩ lâu, những người không thuyết phục bởi phương án này thì hãy tự thật thà với chính mình và công nhận rằng khi than, dầu khí và uran hết rồi thì thế giới này sẽ chấm dứt! Vì nếu không có năng lượng thì không có sự sống. Trong khi ánh mặt trời mỗi ngày chiếu xuống trái đất 15 nghìn lần năng lượng như năng lượng hoá thạch và năng lượng nguyên tử cộng lại. Nếu ta chỉ cần thu hoạch được một phần vô cùng nhỏ trong số năng lượng đó để sử dụng thì thế giới không bao giờ còn thiếu năng lượng nữa.

Duong Thanh Tung - Nam 24 tuổi - Xuan Dinh, Tu Liem, Ha Noi:
- Xin chào ông Tiến Sĩ Hermann Scheer, xin cho tôi hỏi ông một số câu hỏi như sau:. 1. Xin ông cho biết tỉ lệ năng luợng tái tạo ở Đức nói riêng và ở trên thế giới nói chung chiếm bao nhiêu phần trăm tổng sản luợng.
TS Herman Scheer: - Câu hỏi này không trả lời chính xác được bởi vì phải để ý đến khía cạnh kỹ thuật. Hàng ngày chúng ta nhận được năng lượng mặt trời miễn phí, cuộc sống của con người và cây cối phát triển nhờ vào năng lượng đó. Giới hạn cuối cùng của sự sống là - 273 độ C. Nhiệt độ ở Hà Nội hôm nay là 37 độ C và sự khác biệt giữa hai nhiệt độ này là 310độ C và đó chính là năng lượng miễn phí nhận được từ mặt trời. Tỉ lệ năng lượng hoá thạch và nguyên tử được sử dụng như vậy ít hơn 1%. Qua đó tôi muốn nói rằng các bảng thống kê chỉ nói đến năng lượng thương mại hoá mà người ta phải trả tiền. Đó là một cách nhìn cạn hẹn và ngăn cản hướng nhìn đến tương lai của năg lượng tái tạo

Nguyễn Văn Hưng - Nam 29 tuổi - Hà Nội
- Như tôi được biết, ở VN, tình trạng thiếu điện cục bộ vào giờ cao điểm. Nếu sản xuất điện bằng sức gió, phụ thuộc lớn vào gió, có thể sảy ra tình trạng lúc cần điện thì không có gió, mà lúc không cần điện thì có gió. Vậy với kinh nghiệm của ông. ông có thể cho biết giải quyết tình trạng này như thế naò. Có thể xây dựng nhà máy phong điện kết hợp với các nhà máy luyện kim, tiêu thụ rất nhiều điện, để tận dụng năng lượng dư thừa do nhà máy phong điện cung cấp được không? Trên thế giới đã có mô hình kiểu đó chưa?
TS Herman Scheer: - Ban đầu tôi đã nói về Việt Nam nên dùng hỗn hợp về năng lượng tái tạo, lý tưởng là kết hợp nhiều mô hình ví dụ như phong điện và thuỷ điện, ví dụ như khi không có gió thì người ta phải chạy thêm một tuabin của nhà máy thuỷ điện, vv... người ta cũng có thể kết hợp trạm phong điện với một máy phát điện sinh học.

Có nhiều khả năng để tích năng lượng dư thừa của phong điện và điện mặt trời trong đó tôi muốn nêu trạm bơm trữ nước hoặc khí nén, khi có năng lượng dư thừa dùng năng lượng đó để bơm nước lên cao lúc cần lại xả nước để chạy tuabin.

Vũ Văn Việt - Nam 28 tuổi - Hà Nội:
- Các nguồn năng lượng này đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu rất lớn trong khi Việt Nam còn nghèo. Vậy kinh nghiệm của ông trong việc huy động tạo nguồn vốn đầu tư cho các nguồn năng lượng này như thế naò ?
TS Herman Scheer: - Ta phải tính khác đi khi dùng năng lượng tái tạo, không được phép tính chi phí cho một trạm phong điện và so sánh với một nhà máy nhiệt điện chạy than, không được chỉ tính đến giá thiết bị mà phải tính đến tổng chi phí cho đến khi năng lượng được cung cấp. Ví dụ nhà máy điện nguyên tử sẽ cần các chi phí sau: Tiền xây nhà máy điện, chi phí liên tục cho các thanh đốt ngày càng cao, giá chi phí liên tục cho nước làm nguội, chi phí bổ sung cho đường dây điện, chi phí rất cao để lưu trữ rác thải phóng xạ và lưu ý liên tục phải nhập khẩu thanh đốt, chi phí cho an ninh rất cao.

Bây giờ ta so sánh chi phí đó với năg lượng gió: Trạm phong điện không bao giờ cần thanh đốt, không có rác thải phải sử lý, khong dùng nước làm nguội, không cần chi phí cho an toàn. Ngoài ra, nhiều chi tiết kỹ thuật có thể tự sản xuất được, từ đó suy ra rằng có thể các năm đầu tiên, phong điện sẽ đắt hơn đến nănm thứ ba chi phí giá phong điện sẽ bằng, và từ nănm thứ 5 trở đi sẽ liên tục giảm. Một khi đã thu hồi vốn thì năng lượng gió là miễn phí.

Soạn: AM 807823 gửi đến 996 để nhận ảnh này
TS Herman Scheer

Nguyễn Đức Trung - Nam 26 tuổi - Hà Trung, Hà Nội:
- Được biết hôm nay ông đã có một ngày làm việc dày đặc với báo chí và các đại diện của Chính phủ, Bộ ngành Việt Nam. Xin ông cho biết ông đã trao đổi những gì với các quan chức phía Việt Nam?
TS Herman Scheer: - Tôi đã có một lời khuyên rằng hãy chú trọng tuyệt đối mảng năng lượng tái tạo, với mọi công năng của nó. Phải chấm dứt coi thường giá trị của năng lượng tái tạo ngay lập tức như rất nhiều nơi trên thế giới đã mắc phải lõi này. Không có gì nhanh hơn là thực thi ứng dụng năng lượng tái tạo tôi dự đoán rằng nếu các vị tính tất cả các phí tổn cho nhà máy điện hạt nhân mà năm 2020 mới đi vào hoạt động, thì vẫn với số tiền đó trong 5 năm tới đã hoàn tất chương trình về năng lượng tái tạo. Quan trọng nhất là phải biết làm chủ kỹ thuật tối tân.

Nguyen Van Hung - Nam 40 tuổi - Hung Yen, Vietnam:
- Guten Tag, meine Frage an Herrn Dr. Scheer. Die Sonnen oder Windenergie ist noch teuer und sie muß zuerst auf Aku aufgeladen werden. Bei Nutzung muß sie wiederum auf Wechselstrom umwandeln. Die Anlagen kosten viel Geld, als so der wiederverwendbare Strom ist teuer als herkömmliche. Deshalb muß der Staat Subvention leisten. Daher ist der Sonnen oder Windstrom in Vietnam noch Zukunftsmusik. Teilen Sie meine Meinung? . ( Theo tôi được biết, khi sử dụng năng lượng mặt trời thì phải nạp năng lượng qua ắc - quy. Khi muốn sử dụng thì lại phải dùng một thiết bị khác để biến dòng điện một chiều thành dòng điện xoay chiều. Do mua ắc - quy rất đắt nên nhiều người đã không muốn sử dụng điện theo phương pháp này.)
TS Herman Scheer: - Nhận định đó là sai vì năng lượng mặt trời và gió không đi qua con đường nạp ắc quy, chúng tôi đã nêu rõ điều trong bộ luật Đức về Năng lượng.

  • VietNamNet

Tuesday, July 04, 2006

EU: đến 12-7, Iran phải ngưng làm giàu uranium


Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad (phải) và Tổng thống Venezuela Hugo Chavez tại phiên họp thường kỳ của Đại Hội đồng của Liên minh châu Phi ở Banjul, Gambia hôm 1-7 - Ảnh: AP

TTO - Các cường quốc phương Tây sẽ phục hồi các nỗ lực trừng phạt Iran thông qua Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc trừ khi nước này ngưng làm giàu uranium và đồng ý đàm phán về chương trình hạt nhân của mình vào ngày 12-7, giới chức ngoại giao phương Tây hôm qua tuyên bố.

Tuyên bố trên được đưa ra 2 ngày trước khi diễn ra cuộc gặp quan trọng Iran-Liên minh châu Âu (EU) về vấn đề hạt nhân của Tehran ở Brussels. Điều này cho thấy sự kiên nhẫn của quốc tế dành cho Iran đang cạn dần.

Theo các quan chức ngoại giao, vào ngày mai (5-7), Javier Solana, đại diện ngoại giao của EU sẽ thúc giục nhà đàm phán hạt nhân hàng đầu của Iran Ali Larijani đưa ra ngay ý kiến của đất nước ông về việc ngưng làm giàu uranium và bắt đầu đàm phán.

Họ cũng cho biết Nga và Trung Quốc đang ngày càng gần hơn với phương Tây trong việc ủng hộ hành động của Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc - bao gồm cả các biện pháp trừng phạt - nếu Tehran từ chối gói đề xuất của các nước để đổi lại việc Iran ngưng chương trình hạt nhân.

“Nếu Iran không có câu trả lời rõ ràng vào ngày này, các bộ trưởng sẽ thông qua một quyết định khôi phục các cuộc thương lượng về những giải pháp của Hội đồng bảo an”, một trong số các quan chức ngoại giao nói.

Trong khi đó các quan chức Iran nói họ sẽ không đưa ra câu trả lời về đề xuất của 6 nước (Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Trung Quốc, Đức) trước thời điểm giữa tháng 8.

T.VY (Theo AP)

Thêm 9.000 tỷ đồng bù lỗ xăng dầu

"Sẽ bỏ bao cấp đối với mặt hàng dầu"

Phó cục trưởng Cục quản lý Giá Bộ Tài chính Nguyễn Tiến Thỏa
Giá dầu thô thế giới tiếp tục đứng ở mức cao, gần 73 USD/thùng. Theo Phó cục trưởng Cục quản lý Giá Bộ Tài chính Nguyễn Tiến Thỏa, đã đến lúc cần tính đến phương án "thả nổi giá" đối với mặt hàng dầu trong nước theo hướng đảm bảo kinh doanh, Nhà nước không phải bù lỗ.

* Với giá dầu thế giới đang đứng ở mức cao (gần 73 USD/thùng), động thái tiếp theo của liên bộ Tài chính - Thương mại là gì?

- Giá dầu vận động trên 70 USD/thùng cũng mới được vài ngày, vì vậy chúng tôi vẫn tiếp tục theo dõi để có phương án phù hợp trong mọi hoàn cảnh. Tuy nhiên, có thể khẳng định mức này vẫn nằm trong khoảng cho phép tại thời điểm Bộ Thương mại cho mở biên độ đối với giá xăng 10% hôm 27-4 vừa qua.

Trong trường hợp giá dầu leo cao và kéo dài thì sẽ phải tính toán các phương án nhằm đảm bảo giá kinh doanh đối với xăng. Riêng các loại dầu mà Nhà nước phải bù lỗ, chúng tôi cũng đang tính toán thời điểm thích hợp để "thả" giá theo hướng đảm bảo kinh doanh. Tất nhiên, cách thức tiến hành cần phải theo lộ trình để tránh gây sốc đối với nền kinh tế.

* Nhằm chủ động trước diễn biến thất thường của giá dầu thế giới, Bộ Tài chính đã đề xuất phương án điều hành giá xăng dầu theo tháng, hiện công việc đã thực hiện đến đâu rồi?

- Phương án điều chỉnh giá xăng theo tháng chỉ là một trong nhiều cách thức mà các bộ đang nghiên cứu để trình Thủ tướng xem xét. Hiện phương án này vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau giữa các bộ ngành nên chúng tôi đang tiếp tục tính toán thêm.

* Tình trạng buôn lậu xăng dầu vẫn diễn biến phức tạp, thưa ông, các bộ Tài chính và Thương mại sẽ làm gì?

- Hiện nay, cơ quan quản lý tiếp tục thực hiện các biện pháp đồng bộ mang tính hành chính, nhưng vẫn ở mức dùng sức người để chống lại tình trạng buôn lậu. Những biện pháp này theo tôi vẫn chưa giải quyết được căn nguyên của nó.

Căn nguyên của tình trạng buôn lậu chính là sự chênh lệch giữa giá xăng dầu của VN với một số nước trong khu vực. Độ chênh lệch càng lớn càng kích thích buôn lậu. Theo tôi, con đường chống buôn lậu hiệu quả nhất là "triệt tiêu" nguồn lợi từ chênh lệch giá này, tức là để giá xăng dầu của VN "thả" theo giá thị trường, có lên có xuống. VN đang và sẽ đi theo hướng này.

* Ông cho biết diễn biến giá cả các mặt hàng trong những tháng còn lại của năm?

- Giá các loại vật tư nhập khẩu tăng, thời tiết diễn biến phức tạp, nguy cơ dịch cúm gia cầm bùng phát... tất cả những yếu tố này tiếp tục gây sức ép lên chỉ số giá tiêu dùng.

Tuy nhiên, cùng với các biện pháp kiểm soát giá, việc cắt giảm hàng rào thuế quan, phi thuế quan theo lộ trình đã cam kết... đã góp phần đáng kể trong việc hạ nhiệt cơn sốt giá. Tôi tin những tháng còn lại của năm, giá vẫn tăng nhưng nhẹ, thấp hơn tốc độ của 6 tháng đầu năm (khoảng 4%).

* Để kiểm soát giá cả, Liên bộ đã nhiều lần tiến hành kiểm tra, nhưng kết quả những lần ra quân ấy chẳng khi nào được công bố?

- Mặt hàng nằm trong danh sách kiểm soát giá là điện, than, xi măng, bưu chính viễn thông, đất đai, kết cấu hạ tầng, xe bus, nước, xăng dầu... Trong quá trình kiểm tra, nếu chúng tôi phát hiện sai phạm như bán sai quy định hoặc liên kết tăng giá, thì ngoài biện pháp xử lý, các đơn vị này cũng sẽ bị nêu tên trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Chẳng hạn năm 2005, một số đơn vị ngành thép phải kiểm điểm vì để xảy ra tình trạng giá tăng quá cao. Ngoài ra Hà Nội và TP.HCM cũng xử lý nhiều vụ vi phạm về giá trông giữ xe đạp, xe máy.

Đối với những hành vi liên kết độc quyền tăng giá, mức phạt có thể từ 10 triệu đồng đến 15 triệu đồng đối với phạm vi một tỉnh, thành phố, nếu vượt quá phạm vi này, mức phạt sẽ vào khoảng 15-20 triệu đồng. Ngoài việc bị phạt tiền, doanh nghiệp còn bị tịch thu toàn bộ số tiền thu lợi do vi phạm hành chính.

Theo VnExpress

Thêm 9.000 tỷ đồng bù lỗ xăng dầu

Tại hội nghị toàn ngành sáng nay, 3-7, thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Văn Tá cho biết từ nay đến cuối năm sẽ phải bù lỗ cho giá xăng dầu từ 8.000 - 9.000 tỷ đồng.

Số tiền này chủ yếu từ ngân sách, “trích chéo” từ lợi giá từ xuất khẩu dầu thô và chủ yếu bù cho giá dầu để đảm bảo ổn định đầu vào cho các ngành sản xuất chủ chốt.

Con số trên có thể sẽ không dừng lại khi giá dầu trên thị trường thế giới vẫn tiếp tục tăng cao. Cuối tuần qua, giá dầu tại thị trường New York (Mỹ) đã vượt trên 73 USD/thùng (giá giao dịch hiện tại đang là 73,93 USD/thùng). Man Financial, một công ty môi giới năng lượng hàng đầu của Singapore, cũng vừa đưa ra dự báo về biên độ của giá dầu trong ngắn hạn là 70 - 80 USD/thùng, trong khi giá mục tiêu có thể lên tới 105 USD/thùng.

Giá dầu thế giới tăng cao, giá trong nước vẫn phải bù lỗ vì bán theo giá trần của Chính phủ. Theo Thứ trưởng Trần Văn Tá, việc bù lỗ là cần thiết để bình thị trường trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh điều hành giá cả năm 2006 gặp nhiều khó khăn hơn những năm trước.

“Rõ ràng năm nay việc điều hành giá gặp khó khăn, khi mà các mặt hàng như xi măng, điện và than sẽ được điều chỉnh theo hướng tăng. Đây là đầu vào quan trọng của nhiều ngành sản xuất nên sự tác động sẽ rất lớn”, Thứ trưởng nhận định.

Tuy nhiên, nhiệm vụ chung của cả năm mà Bộ Tài chính đặt ra là kiềm chế được tốc độ tăng giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (dự kiến là 8%). Báo cáo của Bộ cũng khẳng định: “Nếu không có những đột biến về giá trên thị trường thế giới và đột biến về thiên tai, dịch bệnh trên thị trường trong nước; và nếu Nhà nước thực hiện có hiệu quả công tác bình ổn giá, thì mục tiêu trên là có thể đạt được”.

Theo Thời báo kinh tế VN

Nền chính trị dầu mỏ


http://www.lanhdao.net/leadership/home.lds/19/3022/


Nền chính trị dầu mỏ - Phần I: Quy luật đầu tiên

Những thế kỷ trước đây, vàng từng là cơn sốt của nhân loại. Còn bây giờ, cũng một loại vàng mới đã và đang làm nghiêng ngả cán cân chính trị toàn cầu: dầu mỏ - hay còn gọi là vàng đen. Nhiều nhà nghiên cứu dự báo, trong vòng 20 năm nữa, dầu vẫn tiếp tục bôi trơn cho trục quay chính của cỗ xe lịch sử. Các "đại gia" sẽ không ngừng công du và gõ cửa đàm phán cho vấn đề năng lượng của mình. Chuyên trang Lanhdao.net xin trích dịch bài viết Nền chính trị dầu mỏ của nhà báo Thomas L. Friedman, bình luận viên của tờ The New York Times. Toàn bộ quan điểm trong bài viết này là của tác giả.

Những điều tự vấn

Tổng thống Iran bác bỏ sự kiện Holocaust (sự kiện Đức Quốc xã tàn sát khoảng 6 triệu người Do Thái và những nhóm chủng tộc, tôn giáo, chính trị khác trong Đại chiến II), ngài Hugo Chavez nặng lời với các nhà lãnh đạo phương Tây, còn ông Putin đang từ chối nhiều cơ hội. Chuyện gì đang xảy ra? Họ hiểu rõ rằng giá dầu và nền tự do không bao giờ cùng hướng về một phía. Đó là Quy luật đầu tiên của nền chính trị dầu mỏ, và có lẽ cũng là điều cốt lõi để hiểu ngọn ngành mọi vấn đề trong thời đại của chúng ta.

Khi tôi nghe thấy Tổng thống Iran, Mamoud Ahmadinejad, tuyên bố: Holocaust là một câu chuyện hoang đường, tôi không thể không tự hỏi mình: “Liệu ngài Tổng thống Iran có thể xử sự theo cách này hay không nếu giá dầu là 20 đôla/thùng chứ không phải là 60 đôla/thùng như hiện nay?”.

Khi tôi nghe nói Tổng thống Venezuela, Hugo Chavez, “nặng lời” với Thủ tướng Anh, và nói với những người ủng hộ mình rằng khu vực tự do thương mại nằm dưới sự bảo trợ của Mỹ ở Châu Mỹ rồi cũng sẽ “chẳng đi đến đâu”, tôi cũng không thể không tự nói với mình rằng: “Liệu ngài Tổng thống có nói như vậy hay không nếu giá dầu là 20 đôla/thùng chứ không phải là 60 đôla/thùng như hiện nay? Đất nước của ngài cũng đã từng phải dựa vào giới doanh nhân, chứ đâu phải trông chờ vào riêng những giếng dầu”.

Trong thời gian qua, khi theo sát những diễn biến tại vùng Vịnh, tôi thấy Bahrain là nhà nước Arập đầu tiên tổ chức một cuộc bầu cử tự do và công bằng, trong đó phụ nữ có thể bầu cử và đứng ra tranh cử. Đây cũng là nhà nước Arập đầu tiên điều chỉnh toàn bộ luật lao động của mình để người dân dễ kiếm việc hơn và ít phụ thuộc vào lao động nước ngoài. Người ta cũng cho rằng Bahrain là quốc gia đầu tiên sẽ cạn kiệt nguồn dầu mỏ. Và đó cũng là quốc gia đầu tiên ký hiệp định tự do thương mại với Mỹ. Tôi không thể không tự hỏi mình: “Liệu đó có phải là một sự trùng hợp?”.

Và cuối cùng, khi tôi quan sát thế giới Arập, chứng kiến những nhà hoạt động dân chủ nổi tiếng ở Libăng đẩy quân đội Syria ra khỏi nước mình, tôi không thể không tự nói với mình rằng: “Liệu đây có phải là điều ngẫu nhiên không khi mà nền dân chủ thật sự đầu tiên của thế giới Arập chỉ có được ở nơi không có một giọt dầu nào?”.

Đi tìm câu trả lời

Càng ngẫm nghĩ những câu hỏi này, dường như tôi càng thấy rõ một điều: chắc chắn có mối liên hệ nào đó - một mối liên hệ theo nghĩa đen mà người ta có thể đo, vẽ được - giữa giá dầu với mức độ ổn định, tự do chính trị và các cuộc cải cách kinh tế ở một số quốc gia.

Cách đây vài tháng, tôi đã đến gặp các biên tập viên của tạp chí Foreign Policy (Chính sách đối ngoại) và đề nghị xem liệu họ có thể biểu hiện được mối liên hệ đó bằng biểu đồ hay không. Trên một trục, chúng tôi sẽ vẽ giá dầu trung bình của thế giới, trục còn lại chúng tôi sẽ thể hiện mức độ tăng lên hay giảm xuống của tự do - về cả khía cạnh kinh tế lẫn chính trị - theo một cách chính xác giống như các tổ chức nghiên cứu có thể làm được. Chúng tôi sẽ đánh giá dựa trên những cuộc bầu cử có màu sắc tự do dân chủ đã được tổ chức, các tờ báo đang hoạt động hoặc đã đóng cửa, những cuộc bắt bớ tuỳ tiện, số lượng các nhà cải cách được bầu vào quốc hội, các kế hoạch cải cách kinh tế đang thực hiện hoặc đã chấm dứt, các công ty được tư nhân hoá hoặc quốc hữu hoá, v.v…

Và tôi là người đầu tiên nhận thấy rằng: đây không phải là một thí nghiệm khoa học, bởi lẽ sự phát triển và sụp đổ của nền tự do chính trị và kinh tế trong một xã hội hoàn toàn không thể đoán định trước hay đổi chỗ cho nhau. Bởi lẽ tôi không có ý định tìm kiếm một chức vụ ở đâu đó mà chỉ đang cố chứng minh một linh cảm và khơi nguồn cho một cuộc thảo luận về mối tương quan thực tế giữa giá dầu và mức độ tự do. Bởi lẽ, dầu thô tăng giá là yếu tố chủ chốt định hình và dẫn dắt quan hệ chính trị toàn cầu.

Biểu đồ đuợc thể hiện dưới đây chắc chắn sẽ gợi mở cho các bạn về mối tương quan chặt chẽ giữa giá dầu và mức độ tự do - chặt chẽ đến độ tôi đã phải nhấn mạnh cuộc thảo luận này bằng cách đưa ra khái niệm về Quy luật đầu tiên của nền chính trị dầu mỏ.

Quy luật đầu tiên của nền chính trị dầu mỏ thừa nhận điều sau: ở các quốc gia có nhiều dầu mỏ, giá dầu và mức độ tự do luôn tỉ lệ nghịch với nhau.

Theo Quy luật này, giá dầu thô trung bình của thế giới càng tăng cao thì sự tự do ngôn luận, tự do báo chí, các cuộc bầu cử tự do và công bằng, hệ thống quan chức tư pháp độc lập, các nguyên tắc của luật pháp và các đảng phái chính trị độc lập sẽ càng bị xói mòn. Những khuynh hướng tiêu cực này còn được gia cố bởi một thực tế là khi giá dầu càng tăng cao, các nhà lãnh đạo của những quốc gia giầu dầu mỏ ngày càng kém nhạy cảm hơn với những gì mà thế giới nghĩ hay nói về họ.

Ngược lại, theo Quy luật đầu tiên của nền chính trị dầu mỏ, khi giá dầu ngày càng thấp thì các quốc gia dầu mỏ sẽ phải xây dựng một hệ thống chính trị - xã hội nhạy cảm hơn với những quan điểm chống đối; đồng thời tập trung hơn vào việc xây dựng một cấu trúc luật pháp và một hệ thống giáo dục phát huy tối đa khả năng của người dân, bao gồm cả nam giới và nữ giới; và để tăng sức cạnh tranh, các quốc gia này còn phải kích hoạt các công ty mới và thu hút đầu tư từ nước ngoài. Khi giá dầu càng giảm, lãnh đạo các quốc gia dầu mỏ sẽ càng phải quan tâm và lắng nghe hơn những gì mà người ngoài nói về họ.

Một vài khái niệm

Theo tôi, nhà nước dầu mỏ là nhà nước vừa phụ thuộc vào sản lượng dầu mỏ khai thác - thứ vốn chiếm phần lớn lượng hàng hoá xuất khẩu và giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) - vừa chịu sự điều hành của một thể chế nhà nước yếu kém hoặc của một chính phủ độc đoán với bàn tay sắt. Điển hình các nhà nước dầu mỏ là: Azerbaijan, Angola, Chad, Ai Cập, Equatorial Guinea, Iran, Kazakhstan, Nigeria, Nga, Arập Xêut, Sudan, Uzbekistan và Venezuela. (Các nước có trữ lượng dầu thô lớn nhưng tồn tại một nhà nước vững chắc cộng với một thể chế dân chủ vững vàng và đã có một nền kinh tế đa dạng trước khi trữ lượng dầu được phát hiện - như Anh, Na Uy, Mỹ - không phải là đối tượng của Quy luật này).

Trong một khoảng thời gian dài, các nhà kinh tế học đã chỉ ra ở mức độ khái quát về những tác động chính trị và kinh tế tiêu cực mà nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào có thể gây ra cho một đất nước. Hiện tượng này được gọi là “Hội chứng Hà Lan” hay “Thảm hoạ tài nguyên”.

"Hội chứng Hà Lan" là hiện tượng nhằm ám chỉ một quá trình suy thoái công nghiệp do chịu hậu quả từ việc đột nhiên tiếp nhận một khối lượng lớn tài nguyên thiên nhiên. Thuật ngữ "Hội chứng Hà Lan" bắt đầu được nhắc đến vào những năm 1960, sau khi quốc gia này phát hiện ra một khối lượng lớn khí tự nhiên. Hậu quả ở những nước có "Hội chứng Hà Lan" là sự gia tăng giá trị đồng tiền, do có một lượng tiền lớn đến từ dầu mỏ, vàng, khí đốt, kim cương và một số tài nguyên thiên nhiên khác. Điều này khiến cho ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá để xuất khẩu mất đi tính cạnh tranh, còn hàng hoá nhập khẩu lại trở nên rất rẻ. Người dân rủng rỉnh túi tiền bắt đầu mặc sức mua sắm, ngành công nghiệp nội địa bị xoá sổ, đất nước rơi vào thời kỳ suy thoái công nghiệp.

Còn “Thảm họa tài nguyên” dùng để chỉ một hiện tượng kinh tế tương tự, nói rộng hơn là chỉ sự phụ thuộc của một đất nước vào tài nguyên thiên nhiên, làm chệch hướng những ưu tiên về chính trị, đầu tư và giáo dục của đất nước đó đến độ mọi thứ đều xoay quanh người kiểm soát dầu mỏ và những người được hưởng lợi từ nó.

Ngoài những lý thuyết tổng quan này, một số nhà khoa học chính trị còn chỉ ra rằng trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đảo ngược hoặc làm suy yếu các xu hướng dân chủ hoá. Một trong những bài phân tích sắc sảo nhất mà tôi có dịp đọc qua là công trình của nhà khoa học chính trị UCLA Michael L.Ross.

Phân tích số liệu thống kê của 113 quốc gia từ năm 1971 đến 1997, Ross kết luận "rằng sự phụ thuộc của một nhà nước vào xuất khẩu dầu mỏ hay khai thác các nguồn khoáng sản khác sẽ khiến nhà nước đó trở nên ít dân chủ đi; rằng các mặt hàng xuất khẩu hàng đầu khác không thể tạo ra loại ảnh huởng này; rằng hiện tượng này không chỉ giới hạn trong khu vực bán đảo Arập, Trung Đông hay Châu Phi tiểu vùng Sahara; và rằng đó không chỉ là hiện tượng xảy ra ở những quốc gia nhỏ”.

Đặc biệt, tôi cảm thấy bản danh sách mà Ross phân tích về những cơ chế, thông qua đó cho thấy sự dồi dào của dầu mỏ có thể tác động đến nền dân chủ, thực sự rất có ích.

Đầu tiên, ông cho rằng có một “hiệu ứng thuế”. Chính phủ các quốc gia nhiều dầu mỏ luôn có khuynh hướng dùng khoản lợi nhuận kiếm được từ dầu mỏ để xoa dịu những áp lực xã hội đòi hỏi nhà cầm quyền phải có trách nhiệm hơn hoặc mang tính đại diện hơn. Tôi thích cách đặt vấn đề kiểu này: trong cuộc cách mạng Mỹ có khẩu hiệu “nếu không có đại diện sẽ không có thuế”, còn khẩu hiệu của các chính phủ chuyên quyền dầu mỏ lại là “đại diện không, thuế không”. Những chính phủ dầu mỏ không phải sống bằng tiền thu thuế của người dân vì lẽ đơn giản, họ chỉ cần khai thác dầu lên để bán nên họ cũng không cần lắng nghe dân chúng nói gì và cũng không cần người đại diện cho quyền lợi của họ.

Còn cơ chế thứ hai mà dầu mỏ được dùng như một công cụ làm suy yếu quá trình dân chủ hóa là “hiệu ứng tiêu tiền”. Sự trù phú về dầu mỏ làm gia tăng những khoản tiền hỗ trợ. Những khoản tiền này làm giảm đi các áp lực lên quá trình dân chủ hoá.

Cơ chế thứ ba mà Ross nói đến là “hiệu ứng của việc hình thành các nhóm chính trị”. Khi lợi tức từ dầu mỏ mang lại cho nhà nước chuyên quyền một khoản tiền khổng lồ thì chính phủ sẽ sử dụng nguồn của cải này để ngăn chặn việc thành lập các nhóm xã hội có khuynh hướng độc lập - chính xác là các nhóm có khuynh hướng đấu tranh đòi quyền chính trị.

Ngoài ra, ông cho rằng, sự thừa thãi tiền bạc có được từ lợi tức dầu mỏ có thể tạo ra “hiệu ứng trấn áp”, nghĩa là chính phủ có thể chi một khoản khổng lồ cho lực lượng cảnh sát, an ninh nội địa và các lực lượng tình báo để chặn đứng các phong trào dân chủ.

Cuối cùng, Ross nói đến “hiệu ứng hiện đại hoá”. Một lượng lớn của cải có được từ dầu mỏ có thể làm giảm bớt những áp lực xã hội trong các vấn đề như chuyên môn hoá nghề nghiệp, đô thị hoá và bảo đảm trình độ giáo dục cao - những xu hướng này thường đồng hành với sự phát triển kinh tế trên diện rộng và sẽ làm sản sinh ra một thế hệ công dân có khả năng tổ chức, thương thảo và giao tiếp, đồng thời tự xây dựng các trung tâm kinh tế của đất nước.

Như vậy, điều tôi muốn nói khi thừa nhận Quy luật đầu tiên của nền chính trị dầu mỏ không chỉ là ở chỗ: sự phụ thuộc quá mức vào dầu mỏ có thể trở thành một thảm họa, mà sự phụ thuộc quá mức ấy, thực tế, có thể tạo ra một sợi dây ràng buộc giữa sự lên xuống của giá dầu với sự thăng trầm trong mức độ tự do của các quốc gia dầu mỏ. Mối liên hệ đã rất rõ ràng. Như biểu đồ trên đã minh hoạ, mức độ tự do trên thực tế giảm xuống khi giá dầu có dấu hiệu đi lên.

Quy luật đầu tiên của nền chính trị dầu mỏ được xây dựng trên những tranh luận đó, nhưng phải tiến thêm một bước nào đó mới có thể làm rõ hơn mối tương quan giữa dầu mỏ và chính trị?

Mời quý độc giả theo dõi tiếp trong các phần sau:
Phần II: Trục chính trị mới?
Phần III: Địa chất thao túng tư tưởng

Từ ngày 11/9/2001, giá dầu đã tăng dần từ mức 20-40 đôla lên mức 40-60 đôla/thùng. Nguyên nhân của sự gia tăng này một phần liên quan đến sự bất ổn và bạo lực liên tiếp xảy ra tại các thị trường xuất khẩu dầu lớn của thế giới như Iraq, Nigeria, Indonesia và Sudan.

Nhưng đáng chú ý hơn có lẽ vẫn là kết quả của sự việc mà tôi gọi là “sự bằng phẳng” của thế giới cùng với sự tấn công ồ ạt vào thị trường 3 tỉ người tiêu dùng của những người đang mong muốn có nhà cửa, ôtô, lò vi sóng và tủ lạnh tại các nước như Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ và các quốc gia thuộc Liên bang Xô Viết trước đây. Họ cần một nguồn năng lượng khổng lồ. Do vậy, nhu cầu này đã và sẽ trở thành một áp lực mạnh mẽ đối với giá dầu. Nếu phương Tây không có những nỗ lực mạnh mẽ để bảo tồn năng lượng hoặc tìm ra nguồn năng lượng mới thì trong một tương lai không xa, giá dầu vẫn sẽ đứng ở mức 40-60 đôla, thậm chí còn cao hơn.

Với thể chế chính trị yếu kém, hay nói cách khác là do còn duy trì chính phủ độc tài, thực tế trên cũng đồng nghĩa với chuyện toàn bộ nhóm các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ có thể sẽ phải trải qua một giai đoạn mà ở đó quyền tự do ngày càng xói mòn, trong khi nạn tham nhũng và những hành vi chuyên quyền, chống dân chủ ngày càng gia tăng. Lãnh đạo ở những quốc gia này luôn muốn có trong tay một khoản tiền lớn để có thể xây dựng lực lượng an ninh, hối lộ những kẻ chống đối, giành được sự ủng hộ từ các cử tri và không tuân theo những quy chuẩn, quy ước quốc tế. Chỉ cần lượm một tờ báo phát hành vào bất kỳ ngày nào trong tuần, chúng ta cũng có thể nhận thấy dấu hiệu của xu hướng này.

Trở lại những câu chuyện

Trên tạp chí Wall Street tháng 2/2005 có đăng một bài báo nói về chuyện các giáo sĩ đạo Hồi ở Tehran - những người trở nên giàu có nhờ giá dầu liên tục tăng cao - đang quay lưng lại trước những nhà đầu tư nước ngoài thay vì trải thảm đón chào họ.

Cụ thể là, nhà khai thác điện thoại di động Thổ Nhĩ Kỳ Turkcell đã ký một hợp đồng với Tehran để xây dựng mạng lưới điện thoại di động do tư nhân làm chủ đầu tiên tại nước này. Nội dung bản hợp đồng rất hấp dẫn: hãng Turkcell đồng ý trả cho Iran 300 triệu USD để có được giấy phép, đồng thời họ sẽ đầu tư 2,25 tỷ USD và tạo ra 20.000 cơ hội việc làm cho người dân Iran. Nhưng các giáo sĩ trong Quốc hội Iran lại đóng băng bản hợp đồng này, với lý do là hợp đồng đó có thể giúp các nhà đầu tư nước ngoài do thám Iran.

Ali Ansari, một chuyên gia về Iran tại trường Đại học trên phố Andrew của Scotland phát biểu rằng: cho đến nay, các nhà phân tích Iran đã ủng hộ cải cách kinh tế được 10 năm, nhưng “trên thực tế, viễn cảnh còn mờ mịt hơn”. “Tất cả số tiền mà họ có được đều nhờ vào giá dầu liên tục ở mức cao, họ không cần phải làm bất kỳ điều gì để cải thiện nền kinh tế”, Ansari nhận xét.

Một bài báo khác về Iran đăng trong tạp chí The Economist ngày 11/2/2006 cũng nhấn mạnh: “Chủ nghĩa dân tộc sẽ thuận lợi khi dạ dày căng đầy và ông Ahmadinejad là Tổng thổng may mắn hiếm thấy khi mong nhận được một ngân khố từ xuất khẩu dầu mỏ trị giá khoảng 36 tỷ USD để giúp ông mua được sự trung thành. Trong bản dự thảo ngân sách đầu tiên, chính phủ đã cam kết sẽ xây dựng 300.000 căn hộ, 2/3 số này nằm ngoài các thị trấn lớn và chính phủ cũng hứa sẽ duy trì mức trợ giá năng lượng, hiện chiếm tới 10% GDP".

Một sự kiện khác tại Nigeria. Đến nay, đất nước này vẫn duy trì chế độ tối đa 2 nhiệm kỳ cho các tổng thống, mỗi nhiệm kỳ kéo dài 4 năm. Năm 1999, Olusegun Obasanjo nhậm chức Tổng thống và sau đó tái đắc cử trong cuộc bầu cử toàn dân năm 2003.

Khi tiếp quản quyền lực từ các vị tướng năm 1999, Obasanjio tiến hành điều tra nhiều vụ vi phạm nhân quyền trong quân đội Nigeria, phóng thích tù nhân chính trị, thậm chí còn quyết tâm nhổ tận gốc nạn tham nhũng. Vào thời điểm đó, giá dầu dao động ở mức 25 USD/thùng. Nhưng giờ đây, khi giá dầu đã lên đến mức 60 USD, Obasanjo đang cố gắng thuyết phục Quốc hội Nigeria điều chỉnh Hiến pháp để cho phép ông đảm trách cương vị Tổng thống thêm nhiệm kỳ thứ ba.

Wunmi Bewaji, lãnh đạo thuộc đảng đối lập trong Hạ viện Nigeria cho hay: có nhiều khoản hối lộ trị giá 1 triệu USD được biếu tặng các nhà lập pháp để họ đồng ý kéo dài thêm nhiệm kỳ cho Tổng thống Obasanjio. “Thứ người ta đang chào hàng hiện nay là một khoản tiền trị giá 1 triệu USD cho mỗi lá phiếu ủng hộ Tổng thống Obasanjio mở rộng nhiệm kỳ”, ông Bewaji trả lời hãng VOA ngày 11/3/2006. “Một quan chức cao cấp trong Hạ viện và một quan chức cao cấp trong Thượng viện đang đứng ra dàn xếp vụ này”.

Clement Nwankwo, một trong những nhà vận động nhân quyền hàng đầu tại Nigeria đã nói rằng, kể từ khi giá dầu bắt đầu leo thang thì “quyền tự do của công dân lâm vào tình trạng suy giảm trầm trọng: người dân bị bắt bớ tuỳ tiện, các phần tử chính trị bị giết hại, nền dân chủ lụn bại.”

Theo ông Nwankwo, dầu chiếm tới 90% hàng xuất khẩu của Nigeria nên có thể hiểu được phần nào tại sao trong thời gian gần đây, số vụ bắt cóc công nhân dầu mỏ nước ngoài lại gia tăng đột ngột tại khu vực châu thổ Niger trú phú của nước này. Nhiều người Nigeria đinh ninh rằng những công nhân này đang đánh cắp dầu mỏ vì lợi nhuận mà họ nhận được từ dầu ngày càng nhỏ giọt.

Dầu mỏ: Nếu có...? Và nếu không...?

Ngày nay, không chỉ mọi hoạt động chính trị đều xoay quanh nhân vật kiểm soát chiếc chìa khoá dầu mà ngay cả chính công chúng cũng đang ngày càng quan niệm lệch lạc về vấn đề này. Đây là tình trạng thường thấy ở các nước xuất khẩu dầu mỏ. Nếu dân chúng sống trong cảnh nghèo nàn mà giới lãnh đạo lại giàu có thì lý do không phải vì đất nước ấy đã thất bại trong việc đẩy mạnh giáo dục, tiến hành đổi mới, cải tổ luật pháp và thúc đẩy thương mại. Lý do là vì ai đó đã đánh cắp nguồn lợi nhuận từ dầu mỏ mà công chúng không được hưởng lợi gì. Mọi người bắt đầu cho rằng để có thể giàu có thì tất cả những gì họ phải làm là ngăn chặn những kẻ đang ăn trộm dầu mỏ của đất nước mình chứ không phải là xây dựng một xã hội quan tâm đến việc đẩy mạnh giáo dục, cải tổ và thúc đẩy thương mại.

“Nếu Nigeria không có dầu mỏ thì toàn cảnh chính trị của nước này hẳn sẽ khác”, Nwankwo nhận xét. “Khi đó, thu nhập không đến từ dầu mỏ, nền kinh tế sẽ trở nên đa dạng hơn, các doanh nghiệp tư nhân sẽ đóng vai trò quan trọng hơn và con người cũng sẽ phải sáng tạo hơn”.

Thực vậy, ở những quốc gia như thế, mối quan hệ giữa giá dầu và mức độ tự do chặt chẽ tới mức nếu giá dầu tăng đột biến có thể sẽ khiến cho phương hướng lãnh đạo chệch khỏi đường lối cải cách kinh tế và chính trị. Như trường hợp của Bahrain, khi nước này nhận ra nguồn dầu của mình đã cạn kiệt thì ngay lập tức, Bahrain đã phải khích lệ cải cách và trở thành một trường hợp đáng để nghiên cứu, cho dù nước này vẫn chưa thể cưỡng lại sự cám dỗ khi giá dầu ngày càng leo thang.

“Chúng tôi đang hưởng một giai đoạn tuyệt vời nhờ giá dầu tăng cao. Điều này có thể khiến các quan chức tự mãn”, Jasim Husain Ali, chủ nhiệm khoa nghiên cứu kinh tế thuộc trường đại học Bahrain nhận xét. “Xu hướng này thật nguy hiểm, vì dầu không thể đem lại thu nhập ổn định và bền vững. Dầu mỏ của Bahrain có thể đủ đáp ứng cho vùng Vịnh nhưng không thể đáp ứng được các đòi hỏi quốc tế. Nên không phải ngẫu nhiên khi một nhà báo trẻ người Iran từng bình luận khi chúng tôi tản bộ ở Tehran rằng: “Nếu nước tôi không có dầu mỏ, nước tôi đã giống như Nhật Bản rồi”.

Nền chính trị dầu mỏ - Phần III: Địa chất thao túng tư tưởng

Trong rất nhiều bài báo của mình, Thomas Friedman luôn đề cập đến mối tương quan giữa giá dầu và mức độ dân chủ ở những quốc gia nằm ngoài sự ảnh hưởng của Mỹ. Nhiều quan điểm của ông bị đẩy đến mức cực đoan, đặc biệt khi ông đưa ra những chính sách mới nhằm tăng thêm quyền lực cho Mỹ. Các khái niệm về Thế giới phẳng*, GEO-Green**... được nhắc đi nhắc lại khiến cho nhiều người bắt đầu hoài nghi: liệu Friedman có còn giữ được bình tĩnh và khách quan hay không khi đánh giá cả một "đại dương" chính trị thế giới chỉ từ "một giọt nước" là dầu mỏ? Chuyên trang Lãnh đạo trong kỷ nguyên mới xin trích dịch phần cuối của góc nhìn này.

"... Với tất cả sự kính trọng dành cho Ronald Reagan, tôi không tin rằng ông ấy là người đã làm lụi bại Liên bang Xô Viết. Rõ ràng, trên thực tế còn có nhiều yếu tố khác, nhưng giá dầu toàn cầu sụt giảm vào khoảng cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX là yếu tố then chốt dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô. (Khi Liên bang Xô Viết chính thức tan rã vào ngày Giáng sinh năm 1991, giá một thùng dầu dao động ở mức 17 USD).

Ngoài ra, giá dầu thấp chắc chắn đã giúp cho chính quyền hậu cộng sản dưới thời Boris Yeltsin quan tâm hơn đến luật pháp, cởi mở hơn với thế giới bên ngoài và nhanh nhạy hơn trước những hệ thống chính sách mà các nhà đầu tư quốc tế đòi hỏi.

Sau đó, Tổng thống Vladimir Putin lên nắm quyền. Hãy cân nhắc sự khác biệt ở Putin khi giá dầu còn ở mức 20-40 USD/thùng với thời điểm hiện tại, khi giá dầu biến động từ khoảng 40-60 USD/thùng.

Khi giá dầu chỉ 20-40 USD/thùng, chúng ta gọi giai đoạn này là “Putin I”. Năm 2001, sau hội nghị đầu tiên giữa Tổng thống Mỹ và Tổng thống Nga, Bush cho rằng mình đã nhìn vào “tâm hồn” của Putin và thấy đây là một người đàn ông có thể tin tưởng được.

Nhưng nếu giờ này, Bush nhìn vào “tâm hồn” của Putin - Putin II - khi giá dầu ở mức 60 USD/thùng thì có lẽ màu sắc ấy đã khác. Bush nhận thấy rằng Putin đã sử dụng vận may bất ngờ mà vàng đen đem lại để thâu tóm (quốc hữu hoá) công ty dầu mỏ khổng lồ Gazprom, nhiều đài truyền hình và các hãng báo chí, tất cả các cơ sở kinh doanh và các viện đã từng hoạt động độc lập.

Khi giá dầu thấp nhất ở đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, ngay cả các quốc gia nhiều dầu mỏ trong khu vực Arập như Cô oét, Arập Xêut và Ai Cập ít nhất cũng đã đề cập đến cải cách kinh tế, cho dù nó mới chỉ chập chững. Nhưng lúc giá dầu bắt đầu leo thang, toàn bộ tiến trình cải cách lâm vào tình trạng trì trệ, đặc biệt trên phương diện chính trị.

Khi các nước xuất khẩu dầu mỏ ngày càng giàu có nhờ nguồn lợi mà vàng đen đem lại thì có thể dầu mỏ đã bắt đầu bóp méo trật tự quốc tế, và trở thành đặc điểm chính của thế giới thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh.

Khi bức tường Berlin sụp đổ, ngày càng có nhiều người tin rằng xu hướng mở cửa thị trường và dân chủ hoá, vốn được cho là không thể ngăn chặn nổi, sẽ trở thành hiện thực. Các cuộc bầu cử dân chủ diễn ra ngày càng nhiều trên khắp thế giới. Và rồi, xu hướng ấy lại trở thành làn sóng bất ngờ chống lại chính quyền các nước xuất khẩu dầu, biến giá dầu có thể lên đến mức 60 USD. Đột nhiên, chế độ tại các quốc gia như Iran, Nigeria, Nga và Venezuela trượt ra khỏi cái từng được gọi là quá trình dân chủ hoá mạnh mẽ cùng với sự hiện diện của những nhà lãnh đạo chuyên quyền đang tận dụng dịp may bất ngờ mà dầu mỏ đem lại để thâu tóm quyền lực, mua chuộc hết những phần tử đối lập và những người ủng hộ mình, đồng thời mở rộng ảnh hưởng của nhà nước đối với khu vực tư nhân, mặc dù trước đó có nhiều người nghĩ rằng chuyện này đã vĩnh viễn lùi vào quá khứ.

Mặc dù chủ nghĩa chuyên quyền tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ không phải là hiện thân cho mối đe doạ về mặt tư tưởng và chiến lược như chủ nghĩa cộng sản tạo ra đối với phương Tây, nhưng ảnh hưởng của trào lưu này có thể làm xói mòn sự ổn định của thế giới. Không chỉ một vài chính phủ có thêm tiền trong một khoảng thời gian dài chưa từng thấy để thực hiện những việc chỉ của riêng mình, mà ngay cả các nền dân chủ khác như Nhật Bản, Ấn Độ cũng buộc phải khúm núm hay nhắm mắt bỏ qua trước hành vi của chính phủ các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ như Iran hay Sudan, bởi lẽ các nền dân chủ này phụ thuộc nặng nề vào nguồn dầu mỏ của các quốc gia trên. Điều này không hề có lợi cho sự ổn định chính trị toàn cầu.

Hãy cho phép tôi nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng, mối tương quan được trình bày qua đồ thị trên chưa hoàn toàn chính xác, và chắc chắn bạn đọc sẽ là người chỉ ra những điểm hạn chế, nhưng tôi thực sự tin rằng đồ thị đó minh hoạ cho một xu hướng chung mà chúng ta có thể nhận thấy trong các chùm tin hàng ngày: giá dầu tăng rõ ràng có ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ tự do ở nhiều quốc gia. Và khi số quốc gia này tăng lên, điều ấy có nghĩa là nền chính trị thế giới bắt đầu bị đầu độc.

Mặc dù chúng ta không thể tác động đến nguồn cung dầu ở bất kỳ quốc gia nào, nhưng chúng ta vẫn có thể tác động đến giá dầu thế giới bằng việc thay đổi số lượng và loại năng lượng mà chúng ta đang tiêu thụ. Khi tôi nói “chúng ta” thì có nghĩa là tôi đang đề cập đến nước Mỹ, quốc gia tiêu thụ tới 25% năng lượng của thế giới, và người dân ở các quốc gia nhập khẩu dầu nói chung.

Nghiên cứu về những giải pháp thay thế cho các dạng năng lượng mà chúng ta đang tiêu thụ nhằm hạ thấp giá dầu không còn là sở thích riêng của các nhà môi trường tâm huyết hay bất kỳ cá nhân nào. Giờ đây, nó đã trở thành nhu cầu thiết yếu của nền an ninh quốc gia.

Vậy nên bất kỳ chiến lược thúc đẩy dân chủ nào của Mỹ nếu không tính đến chiến lược tìm kiếm những giải pháp thay thế năng lượng nhằm kéo lùi giá dầu mỏ thì chiến lược đó sẽ hoàn toàn vô nghĩa và sớm muộn phải nếm mùi thất bại.

Ngày nay, dù bạn ở giai đoạn nào của chính sách ngoại giao, bạn cũng phải suy nghĩ như một người theo thuyết GEO-Green. Bạn sẽ không phải là người có óc thực tế trước chính sách ngoại giao hiện đại, cũng không phải là người có óc thực tế trước trào lưu đẩy mạnh dân chủ nếu như bạn không phải là một chuyên gia môi trường và quan tâm đến lĩnh vực năng lượng".

Thomas L. Friedman
Nguồn: Petropolitics
Tạp chí
Foreign Policy (Chính sách đối ngoại), Mỹ,
Tháng 5-6/2006.

An Duyên - Phùng Thảo - Hà Anh (dịch và biên tập)
------------------------------------------
Thomas L. Friedman là người phụ trách chuyên mục Đối ngoại của tờ The New York Times, từng đoạt giải thưởng báo chí Pulitzer và là tác giả của một số cuốn sách như:
Thế giới phẳng, Chiếc Lexus và cây ôliu.

* Thế giới phẳng: Friedman cho rằng trong làn sóng toàn cầu hoá ngày nay, cơ hội phát triển của mỗi quốc gia, mỗi công ty, mỗi cá nhân… là như nhau. Sân chơi toàn cầu được san phẳng, trong đó nhân tố then chốt chính là công nghệ thông tin, các phần mềm, các ứng dụng mới. Tất cả sẽ biến nhân loại thành láng giềng sát vách.

** GEO-Green: Thuật ngữ do Friedman khởi xướng, là sự tích hợp giữa thuyết địa chính trị (Geopolitics) với thuyết môi trường và năng lượng. Theo đó, một quốc gia, đặc biệt là Mỹ, nếu không muốn lệ thuộc vào các chính phủ khác thì phải có một chiến lược cải cách nhằm hạ giá dầu bằng cách bảo vệ mỏ dầu, phát triển những nguồn năng lượng mới, thậm chí là mở rộng nguồn năng lượng nguyên tử.

Thomas L. Friedman*
Nguồn: Petropolitics
Tạp chí Foreign Policy (Chính sách đối ngoại), Mỹ,
Tháng 5-6/2006.

An Duyên - Phùng Thảo - Hà Anh (dịch và biên tập)
------------------------------------------
* Thomas L. Friedman là người phụ trách chuyên mục Đối ngoại của tờ The New York Times, từng đoạt giải thưởng báo chí Pulitzer và là tác giả của một số cuốn sách như: Thế giới phẳng, Chiếc Lexus và cây ôliu.